Thứ Sáu, 4 tháng 5, 2012

Một thoáng nhìn về Satan

DC-GB-BuiTuan.jpg
1.- Satan là nhân vật hay được nhắc đến trong Kinh Thánh. Hay được nhắc đến, không phải vì Satan giữ chức vụ cao sang cần thiết trong chương trình cứu độ, nhưng vì Satan luôn làm công việc phá hoại bất cứ công trình nào của Chúa.

Satan là nhân vật có thực. Nhân vật đó là một số đông. Ban đầu chúng cũng là những thần lành được ở trên trời. Nhưng vì kiêu căng, bất phục tùng, chúng bị tống xuống hoả ngục. Sách Khải Huyền gọi chúng là “ma quỷ hay Satan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ” (Kh 12,9).

2.-
Không những quỷ Satan lo chuyện mê hoặc thiên hạ, mà nó còn cả dám cám dỗ chính Chúa Giêsu. Phúc Âm kể:
“Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về, được Thánh Thần dẫn vào hoang địa bốn mươi ngày, chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1).

Đối với Chúa Giêsu, quỷ dùng thứ cám dỗ “cao cấp”, nghĩa là nó gợi ý cho Chúa Giêsu hướng về mục đích xây dựng uy tín.
a) Làm cho hòn đá trở thành bánh, để được uy tín kinh tế.
b) Nắm quyền trên mọi dân nước, để được vinh quang chính trị.
c) Từ nóc đền thờ nhảy xuống đất, để minh chứng quyền lực thần thiêng.
Nhưng Chúa Giêsu đã dùng lời Kinh Thánh để thắng những cám dỗ đó.

3.-
Còn đối với phần đông thiên hạ, Satan cám dỗ bằng cách đồng hành một cách quỷ quái với những khát vọng của từng người.
Như với những người ham danh đạo đức, Satan mớm cho họ những thứ đạo đức giả.

Với những người câu nệ vào luật, Satan xúi đẩy họ đưa đời sống đạo vào cái khung luật lệ bề ngoài khắt khe, nhưng bên trong lại thiếu mến Chúa yêu người.
Với những người ưa hưởng thụ, Satan kéo lòng trí họ về những chỗ khoái lạc sai trái.
4.- Thánh Phêrô dùng một hình ảnh đáng sợ, để ám chỉ Satan. Ngài viết: “Ma quỷ là thù địch của anh em, nó như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5,8). Với lời trên, thánh Phêrô quả quyết Satan cám dỗ chỉ để làm hại con người mà thôi.

5.-
Trước những cám dỗ của Satan, chúng ta có thể chống lại được. Nhưng có một việc ghê gớm quỷ ra tay, mà người ta sẽ rất phải khổ tâm, đó là việc quỷ nhập. Hiện tượng quỷ nhập được mô tả là rất đa dạng.

Có trường hợp nhẹ. Có trường hợp nặng.
Phúc Âm ghi lại chuyện một người ở Ghêrêxa bị quỷ ám được đưa đến Chúa Giêsu, để xin Người cứu chữa. Chúa hỏi quỷ đang trong người đó tên là gì? Nó thưa: “Đạo binh”. Nghĩa là trong người đó có từng trăm từng ngàn quỷ chiếm đóng (x. Lc 8,26-31).

Cũng còn chuyện hai người ở miền Gadara bị quá nhiều quỷ ám mình. Khi bị Chúa Giêsu đuổi ra khỏi hai người đó, lũ quỷ đã xin nhập vào đàn heo gần đấy. Phúc Âm nói là “bầy heo rất đông” (x. Mt 8,28-34).
6.- Những ai dễ bị quỷ nhập?
Không có câu trả lời nào được coi là xác đáng. Tốt hơn cả là mỗi người chúng ta hãy khiêm tốn, đừng tự đắc coi mình là chắc chắn được miễn trừ.
Hãy xem trường hợp tông đồ Giuđa. Ông Giuđa được Chúa gọi, rồi được Chúa chọn làm tông đồ. Trong bữa Tiệc ly, ông được thụ phong Giám mục, được rước Mình Máu Thánh, được Chúa rửa chân. Nhưng, liền sau đó, ông bị quỷ nhập. Phúc Âm thánh Gioan viết như sau:

“Chúa Giêsu tuyên bố: ‘Thật, Thầy bảo thật anh em, có một người trong anh em sẽ nộp Thầy’. Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. Trong số các môn đệ, có một người được Chúa Giêsu thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào lòng Đức Giêsu. Ông Simon-Phêrô làm hiệu cho ông ấy và bảo: ‘Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?’ Ông này liền nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu và hỏi: ‘Thưa Thầy, ai vậy?’ Đức Giêsu trả lời: ‘Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy’. Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Itcariốt. Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y”
(Ga 13,21-27).

Đúng là quỷ nhập vào ông Giuđa một cách quá bất ngờ. Nó nhập vào một người là tông đồ Chúa, nhập vào ngay sau lúc ăn bánh Chúa trao ban, nhập vào ngay trước mặt Chúa, nhập vào ngay giữa cộng đoàn các tông đồ, nhập vào ngay trong giờ Chúa lập phép Mình Thánh và phép Truyền Chức Thánh.
7.- Nhìn sơ qua những bất ngờ trên đây, chúng ta không khỏi băn khoăn lo sợ. Càng băn khoăn lo sợ, chúng ta càng cần phải khiêm tốn tỉnh thức đón nhận ơn Chúa và cộng tác vào ơn Chúa. Nếu không, một ơn Chúa ban thêm, lại có thể thêm cơ hội, để con người thêm bất trung, làm dịp cho Satan xâm nhập vào lòng.
Những gì đã xảy ra thời Chúa Giêsu, có thể nay vẫn còn. Con người vẫn yếu đuối. Satan vẫn hung hăng. Chúa vẫn trọng sự tự do của mỗi người. Nhưng Chúa luôn vẫn sẵn sàng cứu chúng ta, miễn là chúng ta biết cộng tác với Chúa. Cộng tác bằng cách nào? Chúa nói rõ“Hãy cầu nguyện và ăn chay” (Mt 17,21).
8.- Thêm vào hai việc đó, chúng ta đừng quên tỉnh thức. Bởi vì hiện nay, Satan đang phá Nước Trời bằng nhiều cách tinh vi. Từ những cách mang danh nghĩa đạo đức đến cách tôn sùng Satan với hình thức lễ nghi như một thứ tôn giáo. Quyền lực của Satan đang phát triển mạnh và khắp nơi.

Một tình hình nặng nề như thế, nếu chúng ta tưởng thắng được Satan bằng những hoạt động tôn giáo nặng về hoành tráng, ồn ào, màu mè, lễ hội, thì chúng ta sẽ vô tình lại rơi vào bẫy Satan.
Đôi khi tôi có cảm tưởng là Satan tỉnh thức hơn rất nhiều người con cái Chúa. Nó và đạo binh của nó luôn có mặt khắp nơi. Chúng luôn nắm bắt bất cứ cơ hội nào thuận tiện, để lôi các linh hồn vào đàng tà dẫn xuống vực thẳm hoả ngục.

Đang khi đó, nhiều người chúng ta vẫn dửng dưng đối với phần rỗi linh hồn. Ngay cả những lời cảnh báo thảm thiết của Đức Mẹ Fatima cũng chẳng được quan tâm đúng mức.

Phải chăng những nguy hiểm đang xảy ra trong thời sự hôm nay sẽ được chúng ta suy nghĩ, để chúng ta biết trở về với Chúa. Ơn cứu độ chỉ đến với ta từ Chúa Giêsu. Chính nhờ Người, với Người và trong Người, chúng ta mới thắng được Satan, để được giải cứu, hầu đi về tới bến thiên đàng bình an hạnh phúc đời đời.

+ Gm. G.B. Bùi Tuần

Mạo hiểm trong đức tin

Thiên Chúa ban cho chúng ta 5 giác quan: xúc giác, thị giác, thính giác, vị giác và khứu giác.
Khi chúng ta nếm gì đó có vị ngọt, chúng ta có được bằng chứng là chúng ngọt, bởi vì chính vị giác của chúng ta mang đến cho chúng ta bằng chứng ấy. Cho dù bất cứ ai khác nói gì, chúng ta biết nó ngọt, bởi vì chúng ta có được bằng chứng. Áp dụng tương tự cho những giác quan khác.

Trong đời sống tinh thần của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta đức tin để chứng thực cho chúng ta những gì thuộc về tinh thần, cũng giống như 5 giác quan của chúng ta mang đến cho chúng ta bằng chứng về những gì thuộc về thế giới tự nhiên. Chúng ta chấp nhận những gì 5 giác quan nói cho chúng ta biết; vậy tại sao chúng ta lại không chấp nhận đức tin như là bằng chứng, khi đức tin làm cho mọi điều chúng ta đón nhận bằng đức tin trở nên thực và hiện hữu? “Tin thế nào thì được như vậy” (Mt 8,13).

Cũng giống như vị giác chính là bằng chứng cho thấy thứ chúng ta nếm có vị ngọt, lòng tin chính là bằng chứng cho thấy rằng chúng ta có được những gì chúng ta cầu xin. Lòng tin không phải là điều không chắc chắn, nhưng chính là một nguyên tắc hoạt động trong thế giới tinh thần giống như nguyên tắc vô hình về trọng lực trong thế giới tự nhiên.

Trong thế giới tự nhiên - thế giới mà nhân loại đang sống - lòng tin chính là một nguyên lý gắn kết mọi gia đình với nhau và thắt chặt tình bạn hữu. Lòng tin chính là đá tảng cho mọi mối giao dịch và sự tin tưởng trong việc kinh doanh. Tại sao lại có suy nghĩ kỳ lạ khi nguyên lý như thế nên được áp dụng trong thế giới tinh thần? Cũng giống như lực hấp dẫn vô hình chi phối thế giới vật chất, và nguyên lý vô hình chi phối thế giới xã hội và tài chính, quy luật vô hình của đức tin cũng chính là sức mạnh cơ bản chi phối thế giới tinh thần. Lòng tin chính là sức mạnh mạnh mẽ nhất trong thế giới tinh thần, sức mạnh mang tính sáng tạo thiết thực, tạo ra những ảnh hưởng và làm cho sự việc xảy ra.

Lòng tin là điều thực tế. Quy luật về lòng tin thật như bất kỳ quy luật nào khác của Thiên Chúa. Chúa đã nói: “Không có đức tin thì không thể làm đẹp lòng chúa” (Dt 11,6), “điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (1 Ga 5,4). Và rồi Ngài đưa ra một định nghĩa rất rõ ràng và đơn giản về lòng tin: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).

Khi chúng ta cầu xin Chúa điều gì đó, chúng ta có được Lời Ngài để cậy dựa vào. Chúng ta phải tin vào những lời hứa của Ngài - không chỉ ghi nhớ chúng, nhưng còn để chúng thấm sâu và bén rễ sâu trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta phải tìm thấy nguồn sức mạnh trong Lời Chúa, và rồi lòng tin sẽ đến tiếp theo sau.

Kinh Thánh viết: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Giêsu” (Rm 10,17). Bạn không bao giờ có thể có được lòng tin cho bất cứ điều gì nếu bạn không chắc chắn rằng Chúa đã ban cho bạn quyền để xin.

Một số câu Kinh Thánh được xem là vũ khí chiến đấu của những chiến sĩ đức tin trong những lúc gian nan:
Thầy nói với anh em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý” (Mc 11,24).

Chúa Giêsu nói: Cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23b).

Lý do khiến chúng ta được mạnh dạn trước mặt Thiên Chúa, đó là Người nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người” (1 Ga 5,14).

Nếu chúng ta biết rằng Người nhận mọi lời chúng ta xin, thì chúng ta cũng biết rằng chúng ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người” (1 Ga 5,15).

Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi và sẽ tỏ cho ngươi biết những điều lớn lao và bí ẩn mà ngươi không biết” (Gr 33,3).

Những gợi ý thực tế để có được điều gì từ Chúa:
1. Hoàn toàn phó thác vô điều kiện nơi Chúa; đặt mọi việc nơi cuộc sống trên bàn thờ, quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm hồn và tâm trí; ý định và cảm xúc; hy vọng và ao ước; những kế hoạch và những tham vọng; tất cả…

2. Học hỏi Lời Chúa để xây dựng và củng cố lòng tin, đọc đi đọc lại những lời hứa cho đến khi chúng bén rễ sâu nơi tâm hồn bạn.

3. Thuộc lòng ít nhất một lời hứa (3 hoặc 4 nếu có thể); hiểu thật sự tường tận.

4. Mang lời hứa ấy đến trước Chúa và nói: “Xin Chúa nhớ lại lời phán cùng tôi tớ, lời ban niềm hy vọng cho con” (Tv 119,49).

5. Kết thúc cuộc thoả thuận với Chúa. Thực hiện một cuộc giao dịch rõ ràng, ký tên bạn phía dưới những hàng chừa trống để Ngài điền vào.

6. Khi xin là sự việc đã được thực hiện, giờ đây, vấn đề được khép lại. Bạn không phải quay trở lại cùng ví trí ban đầu, bạn chỉ quay lại thời điểm thực hiện cuộc giao dịch và nói: “Ngay tại lúc này, tôi đã đặt cược mọi việc nơi Chúa, và đứng vững trong lòng tin”. Giờ đây, “vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững” (Ep 6,13).

7. Giờ đây, đứng vững dựa vào lời hứa bạn đã nhắc Chúa. Hãy tin vào Lời Ngài. Đứng vững, bất chấp mọi tấn công của Satan. Đứng vững, mặc cho những hoài nghi và sợ hãi đang cố lung lay bạn. Đứng vững và nói: Tôi tin Lời Chúa hơn bất kỳ điều gì khác; tôi tin, dù mọi lý lẽ tự nhiên của tôi khiến tôi hoài nghi. “Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. Như có lời chép trong Kinh Thánh: Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử” (Rm 3,4).

8. Ngợi khen, tạ ơn Chúa về sự đáp trả; ngợi khen Ngài vì sự trung tín của Ngài. Bưu kiện vẫn chưa được giao trước cửa nhà bạn, nhưng bạn đã kết thúc cuộc giao dịch với Ngài qua điện thoại, và giờ đây, nơi tâm hồn bạn, một sự tín thác ngọt ngào và một sự tin tưởng thiết tha vào lời hứa của Ngài, trong khi bạn chờ đợi chuông cửa reo. Chúng ta bắt đầu bằng lời cầu nguyện, và kết thúc bằng lời ngợi khen. “Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10,13).

Hãy mạo hiểm trong đức tin. Có rất nhiều cuộc mạo hiểm trong thế giới. Rất nhiều người dấn thân vào công cuộc thám hiểm. Nhiều người đã liều cả mạng sống của mình và nhiều người thiệt mất mạng sống để khám phá ra vùng đất mới.

Liệu chúng ta có thể là những tín hữu dám dựa vào những lời hứa của Chúa để mạo hiểm bước vào những vùng đất mới của lòng tin và ơn lành không? Chúng ta có thể mạo hiểm và nâng mức xà cao hơn không? Liệu chúng ta có quá sợ hãi, thiếu can đảm, nên không thể dựa vào những lời hứa của Chúa để bước đi, và đặt cược tất cả những gì chúng ta có nơi sự trung tín của Ngài không? Cho dù Phêrô đã chìm trong chốc lát dưới cơn sóng biển, nhưng chí ít ông đã có can đảm mạo hiểm.

Chúng ta có luôn sống trong cùng những giới hạn vô cùng hạn hẹp không? Nếu chúng ta không mạo hiểm và thử nghiệm Lời Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ biết được “những điều lớn lao và bí ẩn” mà Ngài đã nói đến trong Gr 33,3. “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi và sẽ tỏ cho ngươi biết những điều lớn lao và bí ẩn mà ngươi không biết”.

Kinh Thánh nói Chúa sẽ dẫn chúng ta vào trong một vùng đất rộng lớn hơn. Ngài sẽ cho thấy “một việc mới” (Is 43,19). Một ngày nào đó, một điều cấp thiết xuất hiện trong cuộc sống của bạn, khi mà chỉ mình Chúa mới có thể giúp bạn, bạn sẽ cần đến một lòng tin mạnh mẽ - bạn sẽ cần biết làm thế nào để dùng những lời hứa của Ngài cho nhu cầu cấp thiết của bạn.

Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến để anh em được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đời sống đức tin chính là một sự sống dồi dào. Có hàng trăm lời hứa của Chúa trong Kinh Thánh; những lời hứa quý giá, chắc chắn và uy lực vô cùng.

Thiên Ân

Ly trà chanh và triết lý hạnh phúc

Một đôi trai gái đang cãi nhau trong một tiệm cà phê và không muốn nhường nhịn nhau.
Chàng thanh niên bỏ đi trong giận dữ, trong khi cô gái vẫn ở lại, một mình, khóc lóc. Cô bực dọc quấy ly trà lạnh. Cô dùng muỗng chà mạnh vào miếng chanh có vỏ. Miếng chanh có vỏ bị chà vào thành ly quá mạnh nên tiết ra nước đắng vào trong ly trà của cô.

Cô gái nói với người bán hàng mang cho cô một ly trà với chanh nhưng không có vỏ. Người bán nhìn cô gái nhưng không nói gì cả. Anh ta lấy ly trà chanh đã nghiền nát vỏ và thay một ly trà chanh có vỏ.

Cô gái nổi giận nói với người bán: “Tôi nói với anh là bỏ vỏ đi. Không hiểu tôi nói gì sao?”.

Người bán hàng với cặp mắt sáng, nhìn cô gái thật bình tĩnh và nói: “Ðừng nóng giận. Sau một lát, vỏ chanh sẽ bị nước ngấm hết mà. Tất cả vị đắng đã tan trong trà và sẽ làm nước trà trong lại và rất ngọt. Có phải cô muốn như thế không? Ðừng nóng giận. Chờ chừng 3 phút thì mùi chanh sẽ tan vào trong ly trà. Nếu không, cô sẽ làm ly trà thành ly trà đắng”.

Cô gái chưng hửng và cảm động. Cô ta nhìn thẳng vào đôi mắt người bán hàng và hỏi: “Vậy thì, cần bao lâu để lấy hết mùi vị từ lát chanh?”.

Người bán hàng mỉm cười và nói: “12 tiếng. Lát chanh sẽ hoàn toàn phát hết mùi vị của nó. Sau 12 tiếng, cô sẽ có một ly trà chanh tuyệt diệu, nếu cô có thể đợi trong 12 tiếng”.

Người bán hàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Không phải chỉ có trà, nhưng cũng là cách để trừ hết những muộn phiền trong đời sống. Nếu cô kiên nhẫn và chịu đựng trong 12 tiếng, cô sẽ thấy nhiều việc không đến nỗi tồi tệ như cô nghĩ đâu”.

Cô gái hỏi: “Có phải bạn cho tôi ám hiệu không?”.

Người bán hàng mỉm cười: “Tôi đang chỉ cho cô cách làm một ly trà chanh. Ðó cũng là cách sống một cuộc đời tốt đẹp”.

Cô gái nhìn ngắm ly trà chanh và suy nghĩ. Sau đó, cô gái về nhà và cố pha một ly trà chanh. Cô lặng thinh ngắm những lát chanh trong ly trà và kiên nhẫn chờ kết quả. Cô thấy những lát chanh thở và lớn dần trong ly nước trong vắt. Cô cảm động, vì cô ta có thể cảm nhận được tâm hồn của lát chanh đang lớn dần và toả ra. Hơn nữa, cô kiên nhẫn chờ trong 12 tiếng đồng hồ. Cô nếm ly trà chanh và nhận thấy nó ngon nhất thế giới.

Cô gái chợt hiểu lý do tại sao trà chanh nếm rất ngon khi chanh hoàn toàn hoà tan trong ly trà. Tiếng chuông cửa chợt reo lên. Cô gái mở cửa và thấy chàng thanh niên có mặt tại đó. Anh ôm một bó hoa hồng rất đẹp trên tay. Lời anh thành khẩn: “Em tha lỗi cho anh nhé?

Cô gái mỉm cười và kéo anh vào nhà. Cô ta mời anh ly trà chanh và nói: “Chúng ta nên cam kết. Sau này, mặc dù chúng ta nóng giận đến thế nào, chúng ta cũng không nên mất bình tĩnh. Chúng ta cần phải bình tĩnh và nghĩ đến ly trà chanh”.

Tại sao chúng ta phải nghĩ đến ly trà chanh?” - chàng thanh niên hơi khó hiểu.

Cô gái trả lời: “Vì chúng ta cần phải chờ trong 12 tiếng đồng hồ”.

Từ đó, cô gái ứng dụng triết lý này trong đời sống. Cô có được hạnh phúc và vui vẻ như chưa từng có trước đây. Cô nếm những ly trà chanh tuyệt vời và một cuộc sống tuyệt diệu. Cô nhớ đến lời người bán hàng: “Nếu cô cố vắt chanh vào trong trà trong 3 phút, cô sẽ thấy trà đắng và nước không trong”.

Cuộc sống cũng như trà. Bạn phải chờ đợi kiên nhẫn và cẩn thận nếm hưởng nó. Nó sẽ đem lại những giây phút thần tiên.

Tuy nhiên, đừng chờ thêm nữa; nếu không, vị của trà chanh sẽ nhạt đi, vì nó đã làm quá lâu rồi. Vì thế, trong cuộc sống, bạn không nên chờ hay bắt người khác chờ quá lâu; nếu không, cuộc sống của bạn cũng phai nhạt và nhàm chán.

nguồn: Sưu tầm

Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Mạc Khải Và Đức Tin Của Ngươi Trẻ Hôm Nay


Bài nói chuyện với Sinh Viên Công Giáo Huế tại Tu viện MTG An Lăng, Chúa Nhật 22.01.2006
Xin được bắt đầu buổi chia sẻ bằng vài câu chuyện nhỏ. Cách đây hai năm, tôi có dịp gặp một sinh viên đang học Tin Học ở Sài Gòn. Qua câu chuyện hàn huyên, tôi được biết anh thuộc một gia đình công giáo rất đạo đức ở Thái Bình. Bản thân anh trước đây cũng rất sùng đạo, sớm lễ tối kinh, tham gia hầu hết mọi sinh hoạt của giáo xứ. Nhưng từ ngày vào Nam, anh chẳng còn đến Nhà Thờ nhiều cũng chẳng thiết tha gì đến đời sống đức tin. Lý do rất đơn giản : lúc còn ở quê nhà anh làm tất cả các việc đạo đức chỉ vì theo thói quen từ nhỏ, hoặc để làm vui lòng ba mẹ (có khi bị “bắt buộc”!), hoặc để như mọi người trong xứ. Bây giờ cái “khung” ấy không còn nữa. Anh thú thật với tôi rằng ở đây “giữ đạo” chẳng biết để làm gì ! Câu chuyện thứ hai do một người bạn tôi chia sẻ. Ở Paris, trong một cuộc họp mặt các tôn giáo : Hồi giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Công giáo, cả những chú Ba Tàu theo Khổng giáo cũng có mặt. Sau khi nghe một loạt các bài tham luận và tham dự buổi hội thảo sau đó, bạn tôi đã đi đến một nhận xét : nhìn từ bên ngoài và xét về mặt lý thuyết, nếu kitô giáo có Kinh Thánh, thì Hồi giáo có Kinh Coran, Khổng giáo có Tứ Thư, Ngũ Kinh, …; nếu kitô giáo có phụng vụ, bí tích, chay tịnh… thì về mặt này, người theo Ấn giáo, Hồi giáo có thể còn “sùng đạo” hơn người công giáo rất nhiều. Trước khi kết thúc, hội nghị đã đi đến một kết luận làm bạn tôi trăn trở mãi : chỉ tôn giáo nào biến đổi được con người từ bên trong, làm cho con người nên tốt hơn, và qua con người, làm cho sinh hoạt của xã hội và nhân loại nên nhân bản hơn, tôn giáo đó mới đáng tin (crédible). Câu chuyện cuối cùng. Cách đây đúng hai tuần, một phụ huynh tôi quen biết đã lâu đến gặp tôi với khuôn mặt rất lo âu, vì cậu con trai đang là sinh viên ở Huế lúc này làm biếng đến Nhà Thờ và bắt đầu tìm hiểu Phật giáo.

Một vài “tín hiệu” trên đây và muôn vàn câu chuyện thường ngày tương tự không khỏi làm chúng ta suy nghĩ đến cái cốt yếu của kitô giáo. Nếu cho rằng kitô giáo khác với Nho giáo, Phật giáo… vì là Đạo do Thiên Chúa mạc khải, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đã tỏ mình ra trong quá khứ, hay Thiên Chúa vẫn không ngừng mạc khải cho tôi hôm nay và ngày mai ? Nhưng quan trọng hơn : Mạc Khải đó chỉ liên hệ đến sự hiểu biết của tôi hay có thể biến đổi cả con người bên trong của tôi ? Cụ thể hơn nữa, trên bình diện đức tin, làm thế nào để người kitô có thể đi từ một “đức tin kế thừa” đến một “đức tin cá vị” với niềm xác tín nội tâm sâu xa hầu có thể vượt qua những khủng hoảng có thể xảy ra ? Tìm cách trả lời những câu hỏi trên đây là ta đã chạm đến cái cốt tủy của đức tin kitô giáo. Để trình bày, tôi xin đi theo lộ trình đơn giản gồm 4 chặng đường (1). Trước hết, (I) tái khám phá những kinh nghiệm trong đời thường về “mạc khải”, rồi từ đó thử xem chúng có liên hệ gì với (II) “Mạc Khải của Thiên Chúa” không. Để khỏi rơi vào lý thuyết mơ hồ, chúng ta sẽ lần bước theo (III) kinh nghiệm của Phaolô, một con người cụ thể đã đón nhận và loan truyền Mạc Khải, để rồi từ đó mỗi người có thể nhận diện (IV) những “nơi” mà chính bản thân mình có thể làm nên những “kinh nghiệm về Mạc Khải” hôm nay.
1. Kinh nghiệm về “mạc khải” trong đời thường
Ở Việt Nam, từ “mạc khải” rất hiếm khi xuất hiện trên báo chí, truyền thanh, truyền hình…, nhưng theo tôi biết thì bên trời Tây từ này khá phổ thông : một minh tinh màn bạc mới nổi lên với nhiều hứa hẹn, một cầu thủ bóng đá đột nhiên chơi hay “trên cả tuyệt vời”, một nhạc sĩ trẻ biểu diễn một cách xuất thần bản giao hưởng nào đó của Bethoven, …thế là ngày hôm sau trên báo chí in đầy hình ảnh của anh ta (hay cô nàng) với hàng chữ : “C’est super ! C’est une révélation !” (Thật tuyệt vời ! Một mạc khải !). Theo nguyên ngữ, mạc nghĩa là màn (velum), khải có nghĩa là “bật mí”, là “mở ra”, là “vén lên”. Mạc Khải (révéler, to reveal) là vén màn lên, là khám phá điều bí ẩn.
a) Một cách tổng quát, nói đến “mạc khải” là nói đến một cái gì đó mới mẻ, xuất hiện cách đột ngột, hoặc một cái gì đó bị che khuất đồng thời lại tỏ lộ ra qua những “dấu vết”, những “biểu hiện”,.v… để rồi nhờ đó người điều tra hoặc nhà thám tử chẳng hạn có thể khám phá ra vụ việc, hoặc nhà tâm lý có thể khám phá ra tính cách của một con người. Theo nghĩa đó, y phục, son phấn, nữ trang… cũng đóng vai trò “mạc khải” vì chúng vừa giúp con người trưng diện, tức là mạc khải điều mà con người muốn mình là, vừa che dấu con người thật sâu xa của họ. Như thế, mạc khải là “dấu hiệu” đòi phải được giải thích (être interprété).
Trong cuộc sống thường ngày, ta cũng có thể gặp những biến cố, những tình huống đựơc xem như những “mạc khải”, nghĩa là chúng soi sáng, tác động đến các chặng đường đời của ta “trước” và “sau” biến cố đó : một cuộc gặp gỡ bất ngờ đầy thú vị, một khám phá chợt đến về lòng thủy chung của một người bạn, một lần thi hỏng “thê thảm”, một cú “sốc” vì mất chiếc Atila “tay ga” mới tinh, một người thân đột nhiên qua đời. Những biến cố ấy gây nên những chấn động lớn khiến ta cảm thấy cuộc đời trở nên khác trước kia, hoặc tạo thành những đợt sóng ồ ạt làm quằn quại mặt đời bình lặng của ta khiến ta phải tự hỏi : tại sao lại như thế được chứ ? Tương lai tôi rồi sẽ ra sao đây? Tất cả ấy đều là những “mạc khải”. Chúng có mặt ở đó, giữa cái khoãng khắc phù du của kiếp sống bồng bềnh và ý nghĩa vĩnh hằng của một biến cố, một tình huống. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã diễn tả thực tế này rất hay trong ca khúc Một cõi đi về. Với nghệ sĩ thiên tài xứ Huế này, có nhiều lúc trong cuộc đời dâu bể, con người bỗng nghe như có tiếng “con tinh yêu thương vô tình chợt gọi”, một tiếng gọi như thức tỉnh tâm hồn, giúp ta ”lại thấy trong ta hiện bóng con người”, lại nghe “ngọn gió hoang vu thổi suốt (cả) xuân thì”.
b) Bước sang một cấp độ khác.
Nếu hiểu “mạc khải” là toàn bộ tiến trình làm cho một người hoặc một vật từ tình trạng mờ đục sang tình trạng trong suốt để được thấy, được nghe, được nhìn, được ngắm, thì ta có thể nói một cái gì đó nếu không biểu lộ ra thì cũng không có đối với ta, hay đúng hơn “có cũng như không”, vì ta không thấy, không nghe, không đụng, không chạm, không cảm nếm được gì cả. E. Renan xác quyết cách mạnh mẽ : “Một hữu thể không tự mạc khải ra bằng hành vi cử chỉ bên ngoài thì dưới cái nhìn khoa học, hữu thể đó không hiện hữu” (Un être qui ne se révèle par aucun acte est pour la science un être qui n’existe pas) (2). Chúng ta có thể nói thêm rằng: không chỉ đối với cái nhìn của khoa học mà cả đối với người khác và ngay cả đối với chính bản thân mình, không mạc khải ra bên ngoài thì xem như cũng không hiện hữu cách trọn vẹn. Một tình yêu đơn phương (yêu thầm) thì đối với người được yêu, tình yêu đó có cũng như không! Đẩy nhận xét này đi xa hơn ta có thể nói: ai không mạc khải mình cho người khác thì cũng không mạc khải mình cho chính mình cách rõ nét, nghĩa là cũng không thực sự nhận ra mình là ai một cách phong phú : tôi biết được tôi là nhờ “va chạm” với người khác. Các nhà tâm lý thường nói : “Gặp gỡ mạc khải bản thân cho bản thân” là theo nghĩa đó. Như thế, mạc khải đích thực chỉ có trong gặp gỡ, mà khi gặp gỡ ai là ta đã đi vào trong tương quan liên vị với người đó rồi. Không còn là kẻ bàng quan nữa. Điều kỳ lạ là càng mạc khải ra bên ngoài thì càng thấy chiều sâu bên trong thăm thẳm hơn ta có thể nghĩ tưởng. Một người con gái đi mua cái khăn choàng tặng cho người mình yêu… thấy cũng chưa đủ; mua thêm cái khăn “mouchoir”thấy cũng chưa đủ: mua thêm cái đĩa CD… vẫn thấy còn thiếu ! Người đó giật mình và lúc đó bỗng chợt nhận ra rằng: mình đang yêu và đang yêu dữ dội hơn mình có thể nghĩ về mình trước đây.
Nhưng giữa những kinh nghiệm đời thường về “mạc khải” vừa phân tích với Mạc Khải theo nghĩa Thánh Kinh mà ta đang tìm hiểu có mối liên hệ nào không? Liên kết hai vế của câu hỏi này (đời thường/Mạc Khải) giúp ta làm nên một câu hỏi khác : Mạc Khải trong Kinh Thánh có thể giúp tôi “tạo ra” những kinh nghiệm mới về Mạc Khải trong đời thường để đời sống đức tin của tôi không “hết lửa” như câu chuyện buồn của người sinh viên vừa được nhắc đến trên đây không ?
2. Mạc Khải dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II
a) Khi đặt câu hỏi “mỗi người có thể “tạo ra” những kinh nghiệm mới về Mạc Khải cho chính mình không” là một cách nào đó chúng ta đã đi đúng cuộc đổi mới trong cách nhìn về Mạc Khải của Công Đồng Vatican II (1962-1965).
+ Trước hết, để hiểu được bước tiến của Vatican II, và cụ thể là của Hiến Chế tín lý về Mạc Khải Dei Verbum (Lời Thiên Chúa) ban hành ngày 18/11/1965, chúng ta hãy biết rằng gần 100 năm trước đó, tuy Công Đồng Vatican I (1868-1870) đã dùng từ “Mạc Khải” để chỉ biến cố Thiên Chúa “tự tỏ lộ mình ra” (auto-révélation) cho nhân loại, nhưng công đồng này lại quan niệm Mạc Khải theo mô hình dạy dỗ (révélation = instruction). Quan niệm này phần lớn nhằm mục đích chống lại sự từ chối Mạc Khải của những người duy lý và thực nghiệm cũng như những khuynh hướng muốn thu hẹp Mạc Khải vào một thứ “tình cảm tôn giáo phổ quát”. Do đó theo nhãn quan của Vatican I, đứng trước nhân loại và con người, Thiên Chúa (và Giáo Hội) xuất hiện như là một thầy dạy, một sư phụ truyền thụ những chân lý phải tin. Bởi đó, khi nói đến “Mạc Khải”, Vatican I nhấn mạnh nhiều đến “tri thức” về Thiên Chúa : “ Hội Thánh Mẹ chúng ta tin và dạy rằng Thiên Chúa, nguyên nhân và cùng đích của mọi loài có thể được biết cách chắc chắn nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người…Tuy nhiên Thiên Chúa khôn ngoan và nhân lành đã mạc khải chính mình Người cho loài người cùng các mệnh lệnh vĩnh cửu (décrets éternels) của thánh ý Người bằng một con đường khác, tức là con đường siêu nhiên” (Hiến chế Dei Filius, 1, 2).
Thiết tưởng cũng nên nói thêm rằng trong các thế kỷ trước, một số bản văn của Giáo Hội có khuynh hướng xem Kinh Thánh như một sứ điệp thần linh gửi đến cho con người từ trên đỉnh núi cao xa vời vợi. Đức Hồng Y Carlo Maria Martini, một chuyên gia lừng danh về Kinh Thánh, đã trích lời nhận xét của Paul Claudel nói về người tín hữu trong Hội Thánh cho đến đầu thế kỷ 20 : “Họ đã có một sự tôn kính Thánh Kinh quá mức đến độ sống xa lạ với Lời Chúa” (3). Lời Chúa bấy giờ dường như có nguy cơ trở thành cái gì xơ cứng hoặc như những định lý toán học. Nhưng định lý thì làm sao đến được với con tim. Chỉ lời nói mới chuyện trò được với thâm tâm con người. Chính trong nghĩa này mà Paul Beauchamp khẳng định rằng “tuyệt đối luôn ở trong những lời của Kinh Thánh, nhưng với điều kiện chúng phải luôn thực sự là những lời nói” (l’absolu est dans les paroles de l’Ecriture, mais à condition qu’elles restent vraiment des paroles) (4).
+ Vì thế, khác với mô hình “Mạc Khải = dạy dỗ” của Vatican I, Công Đồng Vatican II quan niệm Mạc khải theo mô hình «Mạc Khải = hiệp thông» (révélation = communication). Công Đồng cho rằng theo Kinh Thánh, Mạc Khải là một cuộc gặp gỡ, một cuộc đối thoại, một sự hiệp thông liên vị. Mạc Khải không phải từ trời rơi xuống, nhưng được thực hiện ngay trong lòng lịch sử nhân loại. Nói cách khác, nếu Thiên Chúa, chủ thể và nội dung của Mạc Khải, chỉ có một “mầu nhiệm” duy nhất để mạc khải là chính bản thân Người đồng thời đó cũng là cùng đích của kiếp người thì người tín hữu chỉ có thể đạt tới đó bằng con đường duy nhất : lịch sử. Lịch sử của từng người và lịch sử của toàn nhân loại, một lịch sử kéo dài cho đến ngày Chúa quang lâm.
Trong viễn tượng đó, Công Đồng đã mở đầu đầu Hiến Chế Dei Verbum không phải bằng một cái gì kỳ bí, lạ thường, phi-lịch-sử, nhưng chỉ đơn sơ lập lại kinh nghiệm gặp gỡ của một con người cụ thể với Thiên Chúa của mình, đó là kinh nghiệm của “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương”, tức tông đồ Gioan, vì chỉ có hai người yêu nhau thật sự mới tìm đến với nhau và chỉ trong tình yêu con người mới có thể mạc khải tất cả những gì là bí ẩn sâu xa nhất của lòng mình : “Chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời, sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em” (DV 1; 1Ga 1, 3). Chính trong bầu khí đầy ắp đức tin đó mà Công Đồng đã trình bày quan điểm của mình về Mạc Khải : “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã sung sướng mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người (x. Ep 1, 9)… Trong việc mạc khải này, với tình yêu thương mênh mông vô hạn, Thiên Chúa Chúa vô hình (x. Cl 1, 15; 1Tm 1, 17) ngỏ lời với loài người như với bạn hữu (x. Xh 33, 11; Ga 15, 14-15). Người đối thoại với họ (x. Br 3, 38) để mời và đón họ đến chia sẻ cuộc sống riêng tư của Người. Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau… Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người trở nên rạng rỡ cho ta trong Đức Kitô, Đấng vừa là trung gian vừa là sự viên mãn của toàn thể Mạc Khải” (DV 2).
Cần đọc thêm những văn kiện khác của Công Đồng để hiểu được rằng : Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã khiêm cung mạc khải bằng cách tự thông ban chính mình (s’auto-communiquer) cho họ trong Đức Kitô. Điều này khác hẳn với mạc khải nơi các tôn giáo bạn. Thật vậy, trong mọi thời và mọi nơi, con người luôn khao khát Tuyệt Đối. Họ nghĩ là đã “với tới” được Thượng Đế trong các “mạc khải” (chẳng hạn : các bản văn tôn giáo Ai cập do ngón tay của thần bí Toth viết ra, các anh hùng ca thần thoại của Sumer và Ashur, các sách thánh của Ấn độ và Iran…). Nhưng các mạc khải này chỉ mạc khải “đôi điều” về lề luật hoặc về nguồn gốc các thần, để rồi từ đó con người nghĩ mình đã giật lấy được từ thần linh một vài bí nhiệm đặc thù, vài cách ngôn về cách ăn thói ở… Ngược lại, theo Kinh Thánh của kitô giáo, mạc khải là biến cố chính Thiên Chúa đi vào trong con người để hoạt động trong họ và để chia sẻ sự sốâng thần linh của Người cho họ.
b) Dĩ nhiên Vatican II không hề quên đặc tính giáo thuyết của Mạc Khải nhưng đặt nó trong tương quan với chính biến cố Mạc Khải. Mạc Khải chủ yếu vẫn là gặp gỡ giữa hai ngôi vị. Vì thế, biến cố gặp gỡ nầy luôn đi liền với niềm tin. Phải có đức tin Mạc Khải mới có thể “xảy ra”. Nói cách khác, Mạc Khải sẽ không “xảy ra” nếu không có một niềm tin đón nhận nó! Dĩ nhiên Thiên Chúa đã tỏ mình ra cách hiển nhiên trong suốt dòng lịch sử mà chóp đỉnh là Đức Kitô (DV 2). Nhưng chân lý này không phải để biết (sue) mà là để tin (crue). Vì thế sự vâng phục của đức tin được trình bày như một khả năng lắng nghe và đón nhận (DV 5). Đó là cách hiểu sâu xa nhất lời của Công Đồng: “Đứng trước Thiên Chúa tự mạc khải chính mình, con người phải bày tỏ sự vâng phục (= lắng nghe) của đức tin (Rm 16, 26; x. Rm 1, 5; 2Cr 10, 5-6), qua đó con người phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa một cách tự do” (DV 5).
+ Nhưng trước tiên hãy đặt câu hỏi đơn sơ nhất : con người có thể sống mà không cần niềm tin không ? Một chú khỉ con sinh ra là đã có ngay cái khả năng sống với bầy đàn về phương diện sinh học, nhưng với chú bé người thì khác : nó phải “sinh ra lần thứ hai” bằng cách lần mò đi vào trong tương giao, trong gặp gỡ, trong ngôn ngữ, để học cho biết thế nào là tin : tin vào ánh mắt trìu mến của cha, tin vào nụ cười nồng nàn yêu thương của mẹ, tin vào thầy cô bạn bè, tin vào một cuộc đời đang mở ra trước mắt. Hành vi tin tưởng này không những xây dựng con người thành một chủ thể (sujet) nhưng còn xây dựng nên xã hội gồm những nhân vị tự do. Như chúng ta đã nói, do tình yêu thương vô hạn, Thiên Chúa cho người tín hữu nghe và thấy Người, vì thế dĩ nhiên đức tin luôn là một hồng ân, nhưng tiến trình đó không phải là cái gì hoàn toàn “khách quan” từ trên trời rơi xuống. Cha F. Gomez nhận xét thật chí lý : “Phải có sẵn cây đinh thì mới treo “cái mới” lên được; phải có sẵn chiếc khuôn thì mới có thể đổ “cái mới” vào để mà đúc” (5).
+ Đức tin là một gặp gỡ giữa tôi và Thiên Chúa tỏ mình ra trong Đức Kitô. Như đã phân tích trên đây, khi “gặp gỡ” ai là ta đã dấn thân vào mối tương quan liên vị với người đó rồi. Vì thế, Mạc Khải của Thiên Chúa sẽ không “xuất hiện” cho con người nếu con người không chú ý đến nó, dấn thân theo nó. Theo nghĩa này, chỉ có sự hoán cải của những tín hữu mới cho ta những dấu vết của Mạc Khải đích thực. Tính “khách quan” của Mạc Khải không phải là một sự vật (chose) hoặc một dữ kiện (donnée) nào đó, nhưng là một biến cố “nhập thể” của Lời Chúa nơi người tín hữu, nếu họ biết lắng nghe và hoán cải. “Hãy xem quả thì biết cây” (Mt 7, 15-20). ”Quả” nơi người tín hữu là dấu vết khách quan của “cây” Mạc Khải. Một dấu vết rất mong manh vì người bên cạnh tôi có thể không thấy, không biết, đơn giản là vì họ không tin. Như câu chuyện mở đầu trên đây cho thấy, ta đang ở trong một thế giới nhiều tín đồ của nhiều tôn giáo. Dưới mắt con người, chỉ những hiệu quả kiểm chứng được (effets repérabes) về ý nghĩa cuộc sống mới đáng tin. Nói cách khác, với biến cố Ngôi Lời nhập thể, Vinh quang Thiên Chúa đã tỏ hiện hiển nhiên trên mặt đất này rồi, nhưng người ta lại chỉ có thể “đọc” được Mạc Khải đích thực nơi cuộc đời của các thánh, cuộc đời của mỗi người chúng ta chứ không phải nơi những trang sách, dù là những trang Sách Thánh, nghĩa là người ta chỉ có thể tìm thấy dấu vết đích thực của Mạc Khải nơi nhưng trang đời cụ thể, ở đó Lời của Chúa không còn là “chữ viết” mà là “Lời” nhập thể trong những con người đặt trọn niềm tin nơi Người (chẳng hạn chữ “nghèo” trong trang Phúc Âm về Tám mối phúc thật (Mt 5, 3) làm sao sánh được với chữ “nghèo” được viết trên trang đời của Phanxicô thành Assisi).
+ Bởi thế, đức tin luôn mang trong mình một sức mạnh sáng tạo : “Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển!” mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý” (Mc 11, 23). Ở đây nảy sinh một câu hỏi hóc búa : Nếu lòng ta nghi nan thì sao? Làm sao để thoát khỏi đám mây nghi ngờ này ? Dĩ nhiên câu trả lời chỉ có thể đến từ chính con người đón nhận Mạc Khải. Để minh họa cụ thể điều này, chúng ta hãy lắng nghe chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu, một tín hữu qua đời rất trẻ, tâm sự với Mẹ Bề Trên về sức mạnh của niềm tin nơi Chị : “Tương tự như thiên tài Christophe Colomb đã cảm thấy có một tân thế giới nhưng lúc bấy giờ chưa ai nghĩ tới thế giới đó cả, con cũng cảm thấy một miền đất khác sẽ là nơi cư ngụ vĩnh hằng của con một ngày đẹp trời nào đó. Nhưng lập tức những đám mây mù vội đến giăng kín ngay và càng ngày chúng càng dày đặc…Tất cả đều như biến mất!…Thưa Mẹ yêu quý… nếu Mẹ nghĩ rằng theo những tâm tình được con ghi lại trong những bài thơ con sáng tác trong năm qua hẳn tâm hồn con đã phải ngập tràn một niềm ủi an vô bơ,ø để rồi nhờ đó mà bức màn của đức tin được chọc thủng…Không đâu Mẹ, không chỉ là một bức màn tăm tối đối với con nhưng là cả một bức tường cao ngất trời đang che khuất cả thinh không đầy tinh tú…Mỗi khi con ca hát hạnh phúc Quê Trời hay niềm vui được ở bên Chúa.., con tim con chẳng cảm nếm được một chút niềm vui nào cả, bởi vì con chỉ hát khen những gì CON MUỐN TIN mà thôi (6).
Như thế “quả núi được dời đi” ở đây không phải là Núi Ngự Bình “trước tròn sau méo” của xứ Huế chúng ta hay đỉnh Everest cao ngất trời trong dãy Hy-mã-lạp-sơn mà là “ngọn núi đầy sương mù” ở trong tâm hồn của Têrêxa khi Chị nỗ lực muốn tin với tất cả tình yêu và ý chí. Quả thật, ý nghĩa của cuộc đời mỗi người không bao giờ là một cái gì đó đã được làm sẵn (kiểu “mì ăn liền”). Mỗi người hãy làm cho đời mình có ý nghĩa. Và hãy nhớ rằng đó chính là mục tiêu tối hậu mà Mạc Khải của Thiên Chúa nhắm tới. Sự đa diện của những câu trả lời và những kinh nghiệm khác nhau về ý nghĩa của cuộc đời không bao giờ là mối đe dọa đối với Mạc Khải; trái lại sự đa diện đó là cách diễn tả hay nhất, hoàn hảo nhất của mối tương quan thâm tình mà Thiên Chúa muốn xây dựng nơi từng mỗi cá nhân con người. Người gieo giống ra đi… rất hào phóng và công bằng (Mt 13, 3-9). Phần còn lại là thái độ và chất lượng khác nhau của đất. Chỉ nguyên trên những mảnh “đất tốt” thôi cũng có nhiều kết qủa khác nhau : hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Hãy cầm lấy cuộc đời trên đôi tay của mình mà bước đi với Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa chỉ có “một điều duy nhất”, tức là chính Người, để mạc khải cho tôi thì câu trả lời duy nhất của tôi cũng chỉ có thể là hành vi trao hiến hoàn toàn cho Người, một sự trao hiến vô điều kiện, trao hiến đòi ta phải liên lỉ dấn thân.
+ Nhưng để hiểu Mạc Khải theo đúng ý của Công Đồng và như phân tích tâm lý trên đây cho thấy, không những chúng ta phải trở lại với chính mình mà còn trở lại với người khác nữa. Đúng hơn, chúng ta nên bắt đầu từ “nơi người khác”, vì thường ta dễ khám phá ra “nơi người khác” điều mà ta vẫn chưa nhận ra nơi chính bản thân mình, thậm chí trong mình. Truyền thống cho thấy Mạc Khải đến với chúng ta qua trung gian những con người, đàn ông có đàn bà có, già có trẻ có, vốn đã đi trước chúng ta: các tổ phụ, các “ngôn sứ”, Đức Giêsu thành Nadarét và đông đảo các tín hữu khác không sao kể xiết được. Như thế, Đức tin không phải là cái gì hoàn toàn cá nhân mà còn mang tính cộng đoàn. Đức tin là hành vi của mỗi người, tức là sự hoán cải nội tâm (conversion du coeur) nhưng cũng phải cần đến những người “dẫn đường” (guides). Nhưng những người khác đó, dù là các ngôn sứ hoặc chính Đức Kitô, có thể làm cho tôi nắm bắt được điều mà chính tôi không tự mình thấy không? Không phải là lịch sử đã tạo một khoãng cách quá xa giữa tôi và họ hay sao? Đứng trước những câu hỏi này và những câu hỏi tương tự chúng ta có thể trả lời ngay rằng: không, chính tôi sẽ cảm nghiệm, sẽ sống cái chân lý đến từ “bên ngoài” này ngay trong trung tâm “nội giới” của con người tôi. Nhưng bằng cách nào ?
3. Mạc Khải theo “kinh nghiệm” của Phaolô
Chính trong viễn tượng đó mà chúng ta đọc lại Kinh Thánh mỗi ngày, một “kinh” không trình bày cho ta những giáo huấn đã được khái niệm hóa, công thức hóa cách trừu tượng, nhưng dọn ra trước mặt ta những nẻo đường kinh nghiệm khác nhau. Kinh Thánh dạy cho ta biết rằng Mạc Khải đã xảy ra trong lịch sử cụ thể của một dân tộc cụ thể là Israel, của những con người bằng xương bằng thịt là Abraham, Môsê, Đavít, Phêrô, Phaolô…. Mạc Khải đó đã đạt đến chóp đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô và từ đó vượt qua biên cương của nhiều dân tộc, nhiều thời đại để đến với chúng ta hôm nay. Nhưng, đọc Kinh Thánh là phải vuợt qua các thời đại, các chặng đường giáo huấn của Giáo Hội, rồi các chặng đường của khoa khảo cổ học để có thể tiếp cận được với một Mạc Khải đã xảy ra một lần thay cho tất cả vào lúc khởi đầu thôi hay sao ? Thật sự nhiều lúc chúng ta đã có cái cảm giác như thế. Nhưng Kinh Thánh lại mời ta đi vào cái “hôm nay” của Mạc Khải như nó đã được hoàn tất nơi cuộc gặp gỡ của Đức Kitô và các môn đệ của Người.
Để hiểu được cái “hôm nay” này, chúng ta hãy thử gõ cửa kinh nghiệm cá nhân của một “người khác” là Phaolô bằng cách trở về với bản văn cổ xưa nhất của Tân Ước, đó là thư thứ nhất vị Tông Đồ đã gởi giáo đoàn Thessalonica vào khoãng năm 51, trong đó ở chương thứ nhất Phaolôâ lần lượt nói đến việc “loan báo” (1Tx 1, 5) và “đón nhận” Tin Mừng (1Tx 1, 6-10). Trước tiên là việc loan báo. Cần lưu ý : Phaolô là một tác giả Sách Thánh thường tự xưng ở ngôi thứ nhất (“tôi”), nhưng khi thánh nhân quả quyết trong thư gửi giáo đoàn Galát: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20) thì ta có thể nói được rằng : bằng cách đó Phaolô đã tự đặt mình vào trong “truyền thống”, vào trong chính Đức Kitô, Lời Duy Nhất của Thiên Chúa Cha. Nói cách khác, khẳng định như thế có nghĩa là Phaolô phải nỗ lực để cái tôi được xóa nhòa đi ngõ hầu hạt giống Tin Mừng là chính Đức Kitô có thể vươn lên, “hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi…” Vì thế, đối với Phaolô loan báo Tin Mừng, hay truyền thống, đồng nghĩa với dâng hiến mình (tradition = livraison). Lời chỉ sống khi mạng sống của kẻ mang Lời được cho đi : “Chúng tôi quý mến anh em đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em không những Tin Mừng của Thiên Chúa mà cả mạng sống của chúng tôi nữa” (1Tx 2, 8). Theo thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, “truyền thống” này cắm rễ sâu trong chính công trình của Chúa : “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em : trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh…bẻ ra và nói : “Đây là Mình Thầy hiến dâng vì anh em” (1Cr 11, 23-24).
Đó là sứ vụ “loan báo”. Tiếp đến là việc “đón nhận”. Theo sự thường thì chúng ta có thể xuyên qua kinh nghiệm của Phaolô để đi đến cộng đoàn của người, rồi từ đó đến với các Tông Đồ, rồi từ các Tông Đồ đến với Đức Kitô để nối kết với “thời điểm” Mạc Khải đã xảy ra lúc ban đầu. Nhưng sự việc lại không xảy ra theo cách đó. Dưới cái nhìn của Phaolô, để có được sự “lưu truyền” Mạc Khải, người đón nhận không chỉ nhận cách thụ động một lời nói đến từ bên ngoài. Họ phải khám phá ra rằng Lời họ nghe, tức là chính Đức Kitô, đã hoạt động trong họ. Chính lúc đó lời rao giảng mới đích thực là Lời của Thiên Chúa: “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những kẻ tin” (1Tx 2, 13). Như thế chúng ta khám phá ở đây một định luật cơ bản: Lời đã hoạt động trong người nhận lãnh Lời. Kinh nghiệm này làm đảo lộn các trình bày về một Mạc Khải đã chỉ xảy ra một lần vào lúc khởi đầu. Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, Phaolô đồng nhất Mạc Khải này với việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho thánh nhân: “Sau hết Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non”(1Cr 15, 8). Nói cách khác, đối với Phaolô, biến cố Đấng Phục Sinh hiện ra chẳng là gì khác ngoài Mạc Khải của Chúa Con trong chính bản thân kẻ “sinh non” này. Nhưng điều đã xảy ra cho Phaolô có thể xảy ra cho tôi không? Trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, Phaolô mô tả và phổ quát hóa kinh nghiệm này nơi mọi tín hữu cách rõ ràng : “Chính Thiên Chúa rực sáng lên trong lòng người tín hữu (Dieu lui-même brille dans le coeur du croyant) để làm rạng ngời tri thức về vinh quang của Người, một vinh quang tỏa sáng trên nhan thánh Đức Kitô” (2Cr 4, 6).
Như thế, Mạc Khải không chỉ “xảy ra” ở điểm khởi đầu của việc lưu truyền, của giây chuyền “truyền thống”. Mạc Khải hoạt động thực sự mỗi khi xảy ra biến cố duy nhất và độc đáo của việc đón nhận Lời trong đức tin. Bởi đó ta có thể nói rằng kinh nghiệm thiêng liêng của các phần tử Dân Chúa luôn là một yếu tố của truyền thống. Hiểu như thế, truyền thống không phải là một cái gì đã qua, đã xa vời, thậm chí xa lạ và “cổ hũ”. Chúng ta phải góp phần “làm ra” truyền thống, “làm ra” chân lý, một chân lý “luôn luôn lớn hơn” về một “Thiên Chúa luôn luôn lớn hơn” (toujours plus grand). Đó là ý hướng của Công Đồng Vatican II khi khẳng định : “Qua bao thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý” (DV 8). Phải thú nhận rằng, chính các từ ngữ Phaolô dùng trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Thessalonica như “bắt chước” (1Tx 1, 6-7), “noi gương”(1Tx 2, 14) có thể làm ta nghĩ đến một sự tái tạo máy móc nơi các tín hữu. Nhưng Phaolô không ngừng nhắc nhở các độc giả của người phải để ý đến đặc tính duy nhất và nội tâm của việc đón nhận Mạc Khải. Trong thư gởi Galát, Phaolô xác tín : “Tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải do loài người… nhưng là chính Đức Giêsu Kitô đã mạc khải…Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ,…. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người trong tôi…”. (Gl 1, 11tt).
4. Sống “Mạc khải” hôm nay
Không phải Đức Giêsu cũng chẳng phải các kitô hữu đầu tiên đã sáng tạo ra từ “Mạc Khải của Thiên Chúa”. Họ đã vay mượn từ này từ chính môi trường tôn giáo cũng như văn hóa của họ và đã biến đổi nó để nói lên điều họ muốn nói. Câu hỏi cơ bản sẽ là: căn cứ vào đâu để nhận ra rằng Mạc Khải đã xẩy ra trong lịch sử ? Chính xác hơn: dựa vào đâu để nhận ra sự hiện diện của Mạc Khải hôm nay, trong cuộc sống đời thường của tôi ? Những câu hỏi ấy sẽ giúp ta tìm kiếm trong môi trường giáo hội và xã hội thường ngày của Việt Nam những “nơi” (lieux) mà ta có thể nhận diện được dấu vết của Mạc Khải. Trong khuôn khổ của bài này chúng ta chỉ trưng dẫn hai “nơi” có thể “tạo nên” Mạc Khải : Lời Chúa (nhất là Lời Chúa trong phụng vụ) và gặp gỡ tha nhân.
a) Trước hết, mỗi thời đại và trong những môi trường văn hóa khác nhau đều được mời gọi đọc Kinh Thánh và khám phá ra những nẻo đường mới mẻ để đi vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng trước hết cần lưu ý kitô giáo không phải là Đạo của một cuốn Sách, dù đó là Sách Thánh. Chỉ có Hồi giáo là tôn giáo duy nhất xứng danh là “tôn giáo của Sách”, vì đối với người Hồi giáo Kinh Coran đã được Thiên Chúa đọc (dicté) cho vị tiên tri, bởi đó tất cả những gì ghi trong Sách này đều là Lời Chúa trực tiếp. Đối kitô giáo, Thiên Chúa luôn mạc khải chính mình Người qua các trung gian mà chóp đỉnh là Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và cư ngụ giữa chúng ta.
Tiếp đến cũng cần lưu ý: theo thư gửi tín hữu Do Thái, Mạc Khải cũng như chức Linh Mục của Chúa Kitô phải là độc nhất và vĩnh viễn, vì thế một vài Nghị Phụ của Công Đồng Vatican II đã muốn khẳng định thêm là “Mạc Khải đã chấm dứt với các Tông Đồ”, nhưng văn bản cuối cùng đã bác bỏ ý kiến đó, lý do là “vì đó là một lời giải thích đang được bàn cãi (7)”. Thật vậy, khi Công Đồng quả quyết “chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (DV 4; x. 1Tm 6, 14 ; Tt 2, 13), Công Đồng không có ý nói mầu nhiệm Thiên Chúa đã được tát cạn. Thiên Chúa của chúng ta muôn đời vẫn là một Thiên Chúa giấu ẩn, một Thiên Chúa “luôn luôn lớn hơn”, nghĩa là một vị Thiên Chúa không ngừng đến mỗi ngày (Celui qui était, qui est et qui vient), nhất là trong Lời của Người và trong Hy Tế Thánh Thể. Ngay cả sự hiện diện của Người cũng là một sự hiện diện đang đến. Khi tuyên xưng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô là chóp đỉnh của Mạc Khải, chúng ta không được quên rằng Phục Sinh và Quang Lâm là một, mà Quang Lâm chung cuộc chỉ xảy ra ở điểm tận cùng của lịch sử và thời gian. Hôm nay chúng ta vẫn đang đợi chờ, không phải đợi chờ Chúa “trở lại” (son retour) như thể Người đang vắng mặt, đang đi xa chưa về! Đợi chờ là sống với một Đấng đang đến. Trong Thánh Lễ, sau phần Truyền Phép, chúng ta tung hô Đức Giêsu Kitô là Đấng đã chết, đã sống lại nhưng chúng ta thường quên chờ đợi Người đang đến và sẽ đến.
Cũng vậy, Lời Chúa không giới hạn trong các sách Kinh Thánh, dù Kinh Thánh là nơi cư ngụ ưu tiên, là “nhà tạm” của Lời Chúa. Lời Chúa đang đến mỗi ngày và luôn luôn tươi mới, vì thế những chữ gần như cuối cùng của Kinh Thánh trong sách Khải Huyền (là sách “mạc khải” đúng nghĩa nhất) là một lời nguyện nài xin Chúa đến : “Thần Khí và Tân Nương nói : “Xin Ngài ngự đến !» (Kh 22, 17). Hiểu như thế, “đọc” Lời Chúa (lectio divina), một Lời Chúa đang đến “không chỉ là hành vi của môi miệng hay khả năng của tâm trí, nhưng là sự giao thoa gặp gỡ, thậm chí là “va chạm” giữa hai thế giới, thế giới của bản văn và thế giới của người đọc ; và cũng như sau bất cứ một cuộc gặp gỡ hay va chạm đích thực nào, không ai trở về mà lại không mang một vết thương (8)”, nghĩa là sự hoán cải nội tâm cách sâu xa (9). Muốn thế, mỗi lần đến với Lời Chúa người đọc không chỉ phải “cầm trí cầm lòng” nhưng phải “cầm chính cả cuộc đời mình (10) ” để được Tin Mừng biến đổi dưới tác động của Thần Khí, “trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người” (1Cr 1, 7). Thánh Grêgôriô tóm gọn tiến trình này bằng công thức: “Thánh Kinh lớn lên và phát triển cùng với người đọc” (Scriptura crescit cum legente) (11).
b) Sau gặp gỡ Lời Chúa là gặp gỡ tha nhân. Thật vậy, gặp gỡ tha nhân là một “nơi” ưu tuyển để khám phá ra dấu vết của Mạc Khải. Điều hiển nhiên là trong đời sống thường ngày, các liên hệ vốn luôn đi trước chúng ta: liên hệ gia đình, huyết thống, liên hệ xã hội. Như đã nói ở phần kinh nghiệm về mạc khải trong đời thường, có những “va chạm” với tha nhân thật sự là những “mạc khải”, có những tình huống trong đời có tiềm năng “khai mở” (situations d’ouverture) cách dồi dào và cho ta những dự phóng mới. Đó chính là những lúc cao điểm để ta sống đức tin và nhận ra những cái mới trong đời để đi đến một chọn lựa một quyết định dấn thân phục vụ tha nhân. Hãy nhớ rằng đối với truyền thống Do thái giáo và kitô giáo, sự xuất hiện dứt khoát của cái mới là đặc tính chủ yếu của Mạc Khải. Không ai có thể thay thế ta để trả lời tiếng Chúa mời gọi ta. Quyết định kết hôn với một người hay khấn trọn đời trong một hội dòng chẳng hạn, đều là những bước quyết định. Đành rằng mọi sự nơi con người đều là tương đối, nhưng không gì có thể loại trừ khả năng dấn thân trọn vẹn của ta trong một niềm trung tín với chính bản thân mình và với tha nhân cho đến trọn đời. Một cách nào đó, chính niềm trung tín nầy cho thấy trước việc hoàn tất của lịch sử.
Theo cha C. Théobald, tác giả đã gợi hứng rất nhiều cho những chia sẻ này, “tất cả những quyết định thúc đẩy con người dấn thân đến độ chấp nhận sự sống lẫn cái chết cho thấy rằng vĩnh cữu đã thực sự hiện diện trong thời gian. Những tương quan với tha nhân của chúng ta cũng thế, ngay khi chúng ẩn chứa sự vững bền và lòng trung tín thì chúng đã đi vào vĩnh cữu rồi vậy (12)”.
Kết luận : Lúc bức màn rơi xuống
Dĩ nhiên chúng ta cần tỉnh táo để đừng “nhốt” Thiên Chúa vào trong những “kinh nghiệm” nhỏ bé và nghèo hèn của con người, dù là những kinh nghiệm sống Tin Mừng. Nhưng nếu chúng ta khẳng định rằng: cũng như Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa và cũng là lời của con người, thì chúng ta cũng có thể nói Mạc Khải là việc của Thiên Chúa và là “việc của con người” ; hay đúng hơn: Mạc khải của Thiên Chúa chỉ thực sự đạt đến “địa chỉ” của nó khi con người cọng tác với Thiên Chúa trong đức tin, tình yêu và niềm hy vọng. Cũng như Kinh Thánh gồm nhiều sách, nhưng Kinh Thánh cũng là một Sách thôi (Sách Thánh), những nẻo đường của Mạc Khải Thiên Chúa thì nhiều vô số nhưng tất cả ấy cũng chỉ là một Mạc Khải duy nhất : Thiên Chúa muốn cứu độ con người. Lời cha Henri de Lubac nói về mối quan hệ hỗ tương giữa Lời Chúa và hoán cải cũng có thể áp dụng vào mối tương quan giữa Mạc Khải và cứu độ : ‘Lời Chúa là Lời sống động và đầy hiệu năng. Lời ấy chỉ đạt đến sự viên thành thực sự cũng như ý nghĩa tròn đầy của nó ngang qua sự biến đổi mà nó thực hiện nơi người đón nhận nó. Từ đó ta có thành ngữ “đạt đến tri thức thiêng liêng”, một thành ngữ tương đương với việc “trở lại với Đức Kitô”, một cuộc trở lại không bao giờ có thể nói được là đã xong, đã hoàn thành. Giữa cuộc “trở lại với Đức Kitô” [… ] và sự hiểu biết về Kinh Thánh có một quan hệ nhân quả hỗ tương : chính lúc con người hoán cải trở về cùng Chúa là lúc bức màn sẽ rơi xuống: Cum autem conversus fuerit ad Dominum, auferetur velamen (13).
Nói cách khác, bức màn che kín khuôn mặt (figure) của Tin Mừng, tức là khuôn mặt của chính Đức Kitô, chỉ rơi xuống cách trọn vẹn cho người tín hữu đang hoán cải mà thôi, vì thế Đức Giêsu đã liên kết cả ba yếu tố đó trong lời mời gọi đầu tiên : “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
 Lm Giuse Hồ Thứ
——————————–
(1) Một cách tổng quát, nội dung của bài này được cảm hứng và theo sát những gợi ý của cha Ch. Théobald, trong La Révélation…, coll. “Tout simplement”, số 31, Paris, Les Éd. De l’Atelier/Éd. Ouvrières, 2001.
(2) Xem Le Petit Robert, chữ “Révéler”, do Christoph Théobald trích dẫn trong La Révélation, op.cit, trang 18.
(3) ĐGM Võ Đức Minh, “Hiến chế “Dei Verbum”, 40 năm nhìn lại”, trong Lời Chúa trong đời sống Hội Thánh. Tài liệu Thường Huấn Linh Mục Giáo Phận Đà Lạt, 2005, trang 11-12.
(4) Cf. Paul Beauchamp, Parler d’Ecritures saintes, Paris, Seuil, 1987, trang 22.
(5) Felipe Gomez, Kitô học, I, Manila, East Asian Pastoral Institute, 2002, trang 24.
(6) Thérèse de l’Enfant Jésus, Manuscrit adressé à Mère Marie de Gonzague (Manuscrit “C”), trong Oevres complètes, Paris, Le Cerf, DDB, 1992, trang 232 tt.
(7) Xem Thánh Công Đồng Chung Vatican II, Đà Lạt, Phân Khoa Thần học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X xuất bản, 1972, trang 571, chú thích 13 của cha F. Gomez.
(8) Xem Nguyễn Quốc Lâm, “Lectio Divina hay dụ ngôn về viên ngọc quý”, Lời Chúa trong đời sống Hội Thánh. Tài liệu Thường Huấn Linh Mục Giáo Phận Đà Lạt, 2005, trang 235.
(9) Theo F. Gomez trong Thánh Công Đồng Chung Vatican II, op., cit., trang 13, không có tiến triển “trong” Mạc Khải, nhưng “vẫn tiến triển trong việc chúng ta hiểu biết và thực hành Phúc Âm”.
(10) Xem Nguyễn Quốc Lâm, op., cit., trang 250.
(11) B. Calati, “Parole de Dieu”, trong Dictionnaire de la vie spirituelle, Paris, Cerf, 2001, trang 798.
(12) C. Théobald, op., cit., trang 134.
(13 H. de Lubac, l’Ecriture dans la tradition, Aubier, 1966, trang 35. Trích dẫn bởi B. Calati, op. cit., trang 801.

Chúa Giê-su Và Bạn

Mỗi ngày qua đi là ta bước đi tới gần cái chết hơn. Ta tự hỏi ngày mai sẽ ra sao ? Ngày mai sẽ thế nào ? Tôi đang làm gì ? Sẽ phải làm gì ? Những câu hỏi làm ta băn khoăn, lo lắng. Ngày mai ư ? Hãy phó thác tất cả cho Chúa, vì Đấng Tình Yêu luôn ở bên bạn, chăm sóc bạn từng giây từng phút, không bao giờ rời xa bạn. Hãy nhớ : “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, chúng không làm lụng, không kéo sợi ; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết : ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6, 28-29). Mỗi ngày qua đi bạn hãy tự xét mình, hãy xét mình thật kĩ để thấy con người bạn, để thấy ban đã làm gì ? Và Thiên Chúa có hài lòng với những gì bạn làm không ? Trước khi xét mình bạn hãy xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên bạn để Ngài soi sáng cho bạn. Bạn sẽ thấy chính mình. Có thể bạn sẽ nhận ra rằng mình là một kẻ điên khùng, một tên mù quáng, một tên đạo đức giả, một kẻ bị phong hủi,...Bởi vì có những lúc bạn đã không làm như những gì mình tin, đã không yêu thương anh em mình mặc dù trên môi miệng luôn tuyên xưng mình là một Ki-tô hữu, có những lúc bạn tưởng mình thánh thiện đạo đức, là người có đạo nhưng thực ra tâm hồn của bạn đầy rẫy sự xấu xa, có những lúc bạn tự tôn mình lên với vẻ đẹp hào nhoáng bên ngoài mà tâm hồn bạn thì khô cằn, chai đá, có những lúc bạn lên đón rước Chúa vào lòng nhưng chẳng một chút tâm tình, chẳng một tí niềm tin, có những lúc bạn làm những chuyện xấu xa,...Nhưng cũng có những lúc bạn thực là một con người thật sự thánh thiện, đạo đức, là một nhà truyền giáo nhiệt thành, là ánh sáng soi đường cho những người khác,...Bởi bạn đã làm Thiên Chúa hài lòng, bạn đã cho kẻ khát được uống, kẻ đói được ăn, bạn đã làm chứng cho Thiên Chúa không những bằng dấu Thánh Giá mà còn bằng sự giúp đỡ anh em, chia sẻ với kẻ nghèo đói, nâng đỡ kẻ yêu đuối, khóc cùng kẻ khóc, cười cùng kẻ cười, ...
Dù bạn thế nào? Dù bạn có làm gì xấu xa ? Thì Thiên Chúa vẫn luôn ở bên bạn. Hãy chạy lại với Ngài để Ngài ôm ta vào lòng, cho ta những lời khuyên, cho ta sự sống mới, sự sống thần thiêng. Ngài sẽ ôm bạn,chia sẻ với bạn bằng bàn tay, sự chia sẻ của những người xung quanh.Bạn sẽ tìm thấy Ngài qua thánh lễ, qua anh em, qua những câu lời Chúa. Ngài sẽ chỉ cho bạn con đường đi. Còn chần chừ gì nữa ? Hãy bước đi cùng Giê-suu nào ? Ngài đang đợi bạn đó.

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012

Ơn Gọi Tu Trì



NGOÀI ƠN GỌI BẬC GIA ĐÌNH CÒN CÓ ƠN GỌI TU TRÌ
OnGoi.jpg
TU LÀ THEO ƠN GỌI
Lời đầu:
Đi tu là theo ơn Chúa gọi..
Ở ngoài đời lập gia đình cũng là theo ơn Chúa gọi.
Đàng nào hơn?
Không đàng nào hơn cả. Phải tùy theo Ơn Chúa gọi mình.
Làm sao biết?
Khi Chúa gọi ai, Người ban cho các dấu hiệu.
Người ta thường nói: "Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa"!
Không có nhất nhì . Phải tùy theo Ơn Chúa gọi mình.
Hãy tìm ra các dấu hiệu để biết Chúa gọi vào bậc nào Tu "Chùa" hay Tu "tại gia"
Cầu nguyện, bàn hỏi với các vị tu trì, với cha mẹ.
Giữ Ơn gọi, nếu có.
Nhiều khi nhìn bên ngoài, người ta nghĩ em nhỏ có ơn gọi đi tu, nhưng em không có, không thích.

Truyện vui: Người ta kể rằng:
Gia đình kia , bố là người tu xuất, ông ta có 3 con trai. Một hôm cha xứ tới thăm gia đình, cha muốn cổ động ơn gọi làm linh mục. Cha hỏi cậu trai cả:
- Con có muốn đi tu không?
Cậu ta trả lời tỉnh bơ:
- I want to be a doctor, a doctor get a lot of money.
Cha quay sang hỏi cậu thứ hai:
- Con có muốn đi tu không?
Cậu này vừa nhún vai vừa trả lời:
- Oh, oh, I want to become a superstar like Michael Jackson.
Nói xong cậu đi giật lùi, lắc lắc cái mông y như Michael thứ thiệt trên TV.
Không thất vọng, cha xứ nhìn cậu con trai thứ 3 cách âu yếm và hỏi:
- Lớn lên con có muốn đi tu không bé?
Cậu bé này trợn mắt hỏi lại:
- What is đi tu?
Cha xứ...
Người Việt nam thường nói về tu:  "Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa".

Đối với các bạn trẻ, tôi muốn giải nghĩa như sau:

- Tu tại gia là sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà, nhân nghĩa với anh em là sống bậc vợ chồng, bậc gia đình thông thường như mọi người. Đó là con đường chung cho nhân loại.

- Tu chợ là làm việc trong xã hội, giúp dân, giúp nước với tư cách liêm chính (không tham lam, hối lộ, nạt nộ, ức hiếp) theo quyền chức mình có, nhưng hết lòng cứu người, giúp đời.

- Tu chùa là bỏ đời, vào sống trong chùa, nương mình dưới sự phù hộ của Đức Phật, ngày ngày ăn chay, sám hối, tu luyện bản thân, sớm hôm tụng kinh, niệm Phật, mong được qua kiếp này rồi lên niết bàn.

Đối với người Công giáo, thay vì gọi là tu chùa, người ta nói là đi tu Triều hay tu Dòng. 
- Tu Triều là làm linh mục giúp giáo dân trong các xứ đạo. 
- Tu Dòng là xin vào một dòng nào đó, có hoạt động mình ưa thích, để thánh hóa bản thân theo 3 lời khấn dòng: vâng lời, khiết tịnh, khó nghèo, giữ hiến pháp, kỷ luật để làm vinh Danh Chúa, học tập trở thành linh mục, thầy dòng hay nữ tu. Nữ tu còn gọi là dì phước, chị dòng, bà sơ (sister), giúp người giúp đời theo chủ đích riêng của mỗi Dòng. Có dòng giúp người nghèo, dòng dạy học, dòng giúp nhà thương, dòng đi truyền giáo cho người chưa biết Tin Mừng của Chúa.

Nói cách khác, đi tu bên Công giáo là theo ơn Chúa gọi (vocation). Không có ơn Chúa gọi và phù trợ liên tục, không thể sống trọn đường tu.

a/- Tu là Sống độc thân: Vì Tu bên Công giáo là chấp nhận "sống độc thân" để chỉ yêu Chúa, lo việc Chúa, lo cho các linh hồn.

Truyện vui:
Vì muốn cho con đi tu, nên mẹ của bé Khoa luôn luôn nhắc nhở: "Lớn lên con sẽ đi tu nhá." Một buổi tối, sau khi đọc kinh xong, bé Khoa hỏi mẹ:
- Má ơi, con thấy má nấu cơm cho ba ăn. Vậy sau này con đi tu thì ai nấu cơm cho con ăn?
Suy nghĩ một chút, má Khoa trả lời:
- Mình đi tu, tức là mình dâng đời mình cho Chúa, nên con phải nấu cơm lấy mà ăn, đâu có ai nấu cho.
Bé Khoa ra vẻ buồn lắm:
- Má ơi, vậy con không thích đi tu đâu.
Nói xong, bé buồn bã đi ngủ sớm để mai đi học. Hôm sau, khi ở trường học về, bé Khoa rất vủ vẻ nói với má:
- Má ơi, con lại thích đi tu rồi.
Má Khoa ngạc nhiên:
- Ủa! Sao vậy?
- Vì có người cùng đi tu với con và sẽ nấu cơm cho con ăn.
- Ai vậy con?
- Thì cái Thu, con bác Tâm ở gần nhà mình đó.
b/. Tu là dâng hết mọi sự của mình cho Chúa: Dâng hết đây là dâng xác hồn, nhất là tình yêu của mình cho Thiên Chúa, để chọn Chúa là đối tượng tình yêu của mình thay cho mối tình ở đời mình đã từ bỏ.
Trong giờ giáo lý, sau khi sơ giải nghĩa về ơn gọi đi tu, một em thiếu nhi hỏi:
- Sơ ơi, đi tu là làm sao?
- Đi tu là dâng hết cho Chúa
- Dâng hết là làm sao?
- Là dâng, mắt mũi, chân tay, trái tim linh hồn và tất cả những gì em có. Vậy em có muốn đi tu không?
Thinh lặng.
- Em không đi tu đâu. Lạnh lắm, dâng hết quần áo cho Chúa rồi thì lấy gì mà mặc???
c/.Tu phải chăm chỉ: Chăm chỉ là một đức tính tốt của mọi người, nhất là người đi tu theo Chúa, lo mở mang Nước Chúa và phần rỗi các linh hồn, mở mang Giáo hội.

Bé Hoàng 8 tuổi nói với mẹ là em muốn đi tu làm linh mục, nhưng em lại có tật lười biếng, ít khi giúp mẹ làm việc gì trong nhà. Một hôm mẹ em bảo em đưa bao rác ra ngoài cho họ lấy đi. Em trả lời:
- Con mệt quá.
Mẹ bảo lau đĩa cho mẹ, em trả lời:
- Con mệt quá.
Mẹ bảo quét nhà, em trả lời:
- Con mệt quá.
Mẹ Hoàng nói:
- Hoàng, con không thể đi tu làm linh mục được, con lười quá. Làm linh mục thì phải làm việc chăm chỉ và cực nhọc chứ.
Hoàng trả lời:
- Con cũng nghĩ vậy, nên bây giờ con phải nghỉ ngơi trước.
d/. Tu cả cuộc đờiKhông phải đi tu một tháng, một năm, nhưng là đi tu cả cuộc đời. Điều này nghe thấy dễ sợ và khó khăn, làm nhiều bạn trẻ tự hỏi: không biết mình có tu đến cùng được không, hay là tu ít lâu rồi lại ra, lúc ấy sẽ lỡ làng cả cuộc đời !!! Thực tế đã xẩy ra như vậy, nhưng Chúa có cách quyến rủ và Chúa có cách giúp đỡ cho những người không tu được trọn đời, họ sẽ đem những gì đã được học hỏi trong nhà tu để giúp đời.
Bạn thằng Tèo rủ:
- Tèo ơi, mày đi tu không?
- Không tao không thích.
- Sao vậy?
- Đi tu chán thấy mồ, không được chơi game.
- Mày không nghe cô giáo nói: một ngày ở trong nhà Chúa bằng cả ngàn ngày ở ngòai đời sao, mày ngu quá.
Sau một thời gian, Tèo ngỏ ý muốn đi tu.
- Bố ơi, mai con đi tu.
- Tốt.
Tèo đi tu được đúng một ngày rồi xách áo đòi về.
- Chào bố con đã về.
- Sao mày không tu được à.
- Con đi rồi, bố bảo tu một này bằng cả ngàn năm sống ở đời mà. con được ngàn năm rồi.

Mấy câu chuyện vui trên cho bạn một ý niệm về tu trì bên Công giáo, đi theo Ơn Chúa gọi.
Ơn gọi là lời mời gọi âm thầm của Thiên Chúa Tình yêu. Từ đời đời trong ý định của Chúa, Chúa đã nhắm gọi ai làm việc gì sau này. Ơn gọi dần dần nảy nở trong thời gian, cho tới một lúc thuận tiện, Chúa làm cháy bùng lên, và Người đem họ vào nơi Người muốn. Linh mục Colin, dòng Chúa Cứu Thế viết về Ơn gọi như sau:

Giữa đám người hằng hà sa số sẽ được sinh ra trong thời gian, Chúa đã để ý tuyển chọn một số người. Rồi Chúa tách biệt họ ra khỏi đám đông, dành riêng họ cho công việc Tình yêu của Người. Chúa yêu họ cách riêng. Chúa phán với họ như xưa Người phán với các môn đệ: "Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con...(Tin mừng theo thánh Gioan 15,16) 

Nói cách khác: Hạt giống Ơn gọi được gieo vào tâm hồn một trẻ em (nam hay nữ), bị chôn vùi ở đấy nhiều năm không ai biết đến, nhưng rồi một ngày kia, hạt giống sẽ mọc lên và vươn mạnh theo hoàn cảnh Chúa thúc đẩy. Trong âm thầm của tâm hồn người được Chúa để ý tới, Chúa khẽ gọi:
"Con hãy đến theo Thầy...

Và, nếu muốn, với tình yêu, linh hồn sẽ ngoan ngoãn đáp lại:
"Lạy Chúa, Này con đây... 

Và người trẻ chỉ còn đợi ngày đại diện Giáo hội Chúa chấp nhận, và lên đường.
   (Rev. P. Colin, Cssr. Đức Mẹ Với Đời Tu, trg. 14) 
Như thế, Ơn gọi thật đẹp và dễ thương, vì nó phát xuất từ tình yêu Chúa, và sự đáp trả phát xuất từ tình yêu con người. Tất cả đều là việc của tình yêu thánh thiện và quảng đại.

Một cô gái có người yêu khác tôn giáo, cha mẹ cô bảo:
- Ba má không chê thằng bồ của con điểm nào cả, chỉ có nhà mình đạo gốc mà nó thì không đạo. Vậy con nên khuyên bảo anh ấy theo đạo thì mọi việc đều êm đẹp.
- Nhưng thưa Ba Má, con đã khuyên anh ấy rồi mà anh có nghe con đâu.
Thấy con ủ rủ, bà mẹ bèn nói:
- Hay là con đem anh ta đến với Linh mục để Ngài thêm ý kiến cho con trong việc này.
Cô gái nghe lời mẹ liền đem anh bồ đến với linh mục để nghe khuyên bảo. Từ sáng đến tối mới về, vừa vào nhà cô gái đã òa lên khóc:
- Mẹ ơi, anh ấy đã thấm nhuần đạo Chúa rồi, bây giờ chẳng những anh ấy chịu theo đạo mà còn nhất định đi tu luôn chứ không chịu cưới vợ nữa!
"Ôi, Ơn gọi làm linh mục cao trọng chừng nào! Thiên Chúa đã đến sống cuộc sống của loài người, Người cần linh mục để tiếp xúc với lòng Thương xót và sự tha thứ của Chúa. Người cần thừa tác vụ linh mục để tẩy sạch tội lỗi, để xóa bỏ tội lỗi trong Máu Thánh Người.

Hỡi các bạn trẻ được Chúa Kitô kêu gọi, được Chúa Kitô chọn làm của riêng Người, hãy quan tâm đến lời mời gọi này như chiếc cầu liên kết linh hồn với Thiên Chúa. Chúng ta đừng yêu bằng lời suông, nhưng hãy yêu đến bị tổn thương. Yêu đắt giá như Chúa Giêsu yêu ta, Người yêu đến chết vì ta.
Giờ đây đến lượt ta cũng phải yêu nhau như Chúa đã yêu ta. Bạn đừng sợ thưa "yes" với Chúa Giêsu, vì không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của Người, không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của Người".

...Ta có một người mẹ trên trời, Đức Trinh Nữ Maria, là Đấng hướng dẫn chúng ta, một niềm vui to lớn, và là nguồn mạch quan trọng niềm vui của ta trong Chúa Kitô. Hãy cầu xin Người trước Nhan Chúa. Hãy lần hạt Mân côi, để Mẹ Maria luôn ở với bạn, hướng dẫn bạn, che chở, gìn giữ bạn như người mẹ...

Lời cầu của tôi cho bạn là xin cho bạn hiểu biết và có can đảm trả lời lời mời gọi của Chúa Giêsu bằng tiếng "xin vâng" đơn sơ.

Bây giờ, mời các bạn cầu nguyện với tôi lời cầu mà các nữ tu thửa sai Bác ái cầu hằng ngày: Lạy Chúa, xin làm cho chúng con đáng phục vụ anh chị em chúng con rải rác khắp thế giới, những người sống và chết trong nghèo khó, đói khát. Qua sự phục vụ của bàn tay chúng con, xin ban cho họ bánh ăn hàng ngày, và qua tình yêu hiểu biết của chúng con, xin ban cho họ bình an và niềm vui.

Lạy Chúa,xin cho con trở thành khí cụ bình an,
để con đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem tin kính vào nơi nghi nan,
đem hi vọng vào nơi thất vọng,
đem ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui vào chốn u sầu,
Ôi Thầy chí thánh, xin ban cho con biết:
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu,
vì khi cho đi là khi nhận lãnh,
khi tha thứ là được thứ tha,
khi chết đi là khi sống muôn đời.
Amen.
(Mother Teresa, One heart full of love).

Làm sao biết có ơn gọi đi tu?
Đi tu là theo Ơn gọi vào bậc riêng để làm việc Chúa, cũng như lập gia đình là một ơn gọi vào bậc chung của loài người để yêu thương nhau, sinh sản con cái, dạy chúng biết thờ phượng Chúa, để đời sau, chúng được hưởng phúc Thiên đàng muôn đời.

Người ta nói: "Tu là cõi phúc, Tình là giây oan". Có đúng không?

Thực ra tu là cõi phúc, mà tình cũng là cõi phúc. Tu là giây oan, mà tình cũng là giây oan. Tùy lối sống đường tu, đường tình, nếu tu ra tu, tình ra tình. Nhiều người đi tu lâu năm rồi cũng bỏ ra (xuất), vì họ không thấy tu là cõi phúc. Nhiều người lập gia đình lâu năm rồi cũng li thân, li dị. Họ không thấy đường tình là cõi phúc.

Sao vậy?

Chỉ tại chữ "YÊU". Vì tình yêu là yếu tố chính không còn tác động trong họ nữa. Họ tu mà không còn yêu Chúa, yêu các linh hồn hăng say. Họ tình mà không còn yêu vợ, yêu chồng mặn mà, nên một bên không đi trọn đường tu, một bên không đi trọn đường tình.

Kết quả là rã đám: Anh đi đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi, Do đó người tu hay người tình rất cần "Làm mới lại Tình yêu" luôn luôn. Người tu có những phương thế là cầu nguyện, tĩnh tâm, hi sinh...còn người tình cũng cần làm mới lại tình yêu như thuở ban đầu mới yêu nhau bằng trau dồi, chia sẻ, thông cảm...

Chúa Giêsu không hiện ra gọi bạn như Người đã gọi chàng thanh niên xưa:"Hãy về bán những gì anh có, rồi đến theo tôi... (Mt 19,21), nhưng Người cho bạn những dấu hiệu:

a- Người thúc đẩy lòng ham muốn:
Chúa xui khiến rất hay. Một em bé đang vui chơi, vô tư nhảy nhót, một ngày nào đó, tự nhiên thấy muốn đi tu.

"Hồi còn nhỏ, tôi và thằng bạn trong Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể (ngày trước gọi là Nghĩa Binh Thánh Thể) đi dự đám táng linh mục chánh xứ chúng tôi mới qua đời. Chúng tôi theo người lớn kiệu thi hài cha xứ đi quanh làng trước khi đưa về chôn cạnh nhà thờ. Mọi người trong xứ đi vào hàng ngũ hết. Tôi chợt nói với thằng bạn: " Đi tu khi chết được chôn táng long trọng quá mày ơi, lớn lên tao cũng đi tu.". Tôi nói cách bâng quơ mà không hiểu đi tu là thế nào. Thế rồi lòng tôi cứ ngày càng muốn đi tu hơn. Trong gia đình ông nội tôi, có 4 chú đã đi tu. Sau này 2 chú đã làm linh mục. Tôi thích đi tu đến nỗi, tôi có một ông anh họ, ông ấy thử tôi:
"Nếu mày muốn đi tu làm cha thì để cho tao véo đùi, không được kêu khóc, tao sẽ chắp tay chào "Lạy cha", nếu mày khóc thì không đi tu được". Ông ấy nói và làm thật, tay người lớn véo đùi con nít, miếng thịt đùi tôi bầm tím lại, nước mắt tôi dàn dụa, nhưng tôi nhất định không kêu, không khóc. Thua cuộc, anh phải chắp tay lại chào em theo kiểu trọng kính thời trước: "Con xin phép lạy Cha ạ".’

Thế rồi tôi đi tu thật.
Chú tôi làm linh mục được cử về làm phó xứ Lạc đạo (gp.Bùi chu). Xứ này cách xa xứ tôi gần một ngày
đi xe đạp. Thời đó, các linh mục coi xứ nuôi ơn gọi bằng cách cho con trai đến ăn học tại nhà xứ. Gia đình không phải tốn kém tiền nuôi ăn cho con em, vì xứ nào cũng có tài sản là ruộng lúa của nhà thờ.
Bố tôi cho tôi đi ở với cha chú Giuse Đoàn Ngọc San. Một ngày đẹp trời, ngày tôi đi tu lúc lên 8. Buổi sáng mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn bữa từ giã, mẹ tôi luộc trứng, ăn vào sao nó nghẹn ngào, đút lấy cổ không nuốt được, một nỗi buồn man mác vì sắp xa gia đình. Bố tôi chở tôi bằng xe đạp từ Xuân hà tới xứ Lạc đạo.
Tôi ngồi đàng sau bố tôi, đường dài thật dài, bố tôi cũng buồn không nói gì, giống như ông Abraham dẫn con đi sát tế!. Tôi khóc, và khóc nức nở. Nhớ mẹ và các em kinh khủng, lần đầu tiên xa gia đình.
Ở tại nhà xứ xa xôi, không bà con quen thuộc, ăn uống khem khổ, cơm thì có, nhưng thức ăn thì thường thấy quả sung kho với nước muối, các thứ thịt cá để dành cho các cha, các cậu đứng quạt hầu cơm, chỉ nuốt nước bọt.
Tôi là con cha phó, thường bị các cậu lớn con cha xứ bắt nạt, (ăn hiếp). Đời tu không có gì vui, nhưng không hiểu tại sao tôi không bỏ về, không có một ý nghĩ bỏ về. Như vậy có phải là ngu không?
Sau này vì chiến tranh, chú tôi bỏ xứ An bài đi vào Nam (1953).
Tôi về lại với gia đình.
Vào miền Nam, năm 1955, gặp ông thầy quen rủ đi, tôi lại đi tu DKT ở An hồ, tỉnh Mỹ tho.
Cũng lại bố tôi dẫn tôi đi, nhưng lần này tôi đã 15 tuổi, nên ít nhớ nhà hơn. Cuộc sống tu cũng nhiều khổ cực, nhưng cũng không có lần nào tôi định bỏ về.
Chúa Đức Mẹ dìu dắt cách âm thầm và thật lạ lùng.
Thời gian làm đệ tử và tu sĩ tại DĐC, ở Thủ đức, tôi tu thật kỹ, mười mấy năm dài, không màng chi những cảnh trôi nổi chung quanh...
Sau khi qua Mỹ, làm linh mục, tiếp xúc với nhiều người, nhiều dịp cám dỗ...
Lúc này tôi mới thấy phải chiến đấu để bảo vệ đời tu.
Không thiếu những lần mồ hôi nhễ nhãi, trái tim nghẹt thở, có khi rướm máu để trung thành với Ơn gọi.
Có những lúc phải bước đi trong dáng điệu mệt mỏi, đôi lần ngã sấp mặt xuống đất, thánh giá văng ra bên cạnh. Nhưng ơn Chúa thật dồi dào, nhìn gương Thầy Chí thánh khi xưa, tôi lại chỗi dậy, đi nốt con đường tu trì.
Đầy dẫy những tha thứ, những khuyến khích, những lời cầu, những quí mến, những nâng đỡ từ Trời cao, từ nhiều người, từ nhiều dịp...
Nhiều khi trong đêm tối, trong căn phòng im lặng, một câu hỏi thầm kín bừng bừng nổi dậy: Tại sao tôi đi tu? Tại sao tôi không bỏ?
Nhưng lời an ủi của Chúa đến ngay trong đầu:
"Không phải con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn con, và sai con đi, để con mang lại hoa trái, và hoa trái của con tồn tại, để những gì con xin cùng Cha nhân Danh Thầy, thì Người ban cho con. Thầy truyền cho con thương yêu tha nhân"(Gioan 15, 16-17).
Sóng gió, bão táp đã im lặng, tâm hồn lại được sưởi ấm.
Vâng, cảm ơn Chúa đã chọn con, dìu đắt con cho tới ngày hôm nay, đưa con đi bình an cả trong tai nạn, đau khổ, để con có thể nói: Chúa Mẹ thương yêu tôi cách đặc biệt hơn bao nhiêu bạn bè cùng trang cùng lứa. Giêsu Maria Giuse con tin cậy, con mến yêu. Xin làm những điều Các Ngài muốn. Xin cứu rỗi các linh hồn.
Trong đời tu, tôi sẽ không "cô đơn", vì có 3 Đấng phù trợ trên đường lên núi Canvê, có Chúa trong Thánh Thể tăng sức mạnh giúp tôi đi đến cùng.

b- Người ban cho những tư cách cần thiết:
Để làm linh mục, Giáo luật khoản 241 đòi hỏi như sau: "Giám mục chỉ nên nhận vào Đại chủng viện những người nào, xét theo các đức tính nhân bản và luân lý, đạo hạnh và trí tuệ, sức khỏe thể lý và tâm lý cùng ý muốn ngay thẳng của họ, được coi là có đủ khả năng hiến thân trọn đời cho các tác vụ thánh".

Những tư cách để đi tu có thể gồm trong 7 chữ T sau đây:
T1/ Thể xác: Khỏe mạnh, không tật nguyền.
T2/ Trí khôn: Thông minh và chăm chỉ.
T3/ Tâm hồn: Thật thà, khiêm tốn, dễ vâng phục, thích cầu nguyện.
T4/ Tôi: Bỏ mình, vác thập giá đời tu qua nhiệm vụ.
T5/ Tình: Yêu Chúa, yêu các linh hồn, sống đời độc thân. Tình Chúa thay tình đời.
T6/ Tiền: Ham nghèo hơn ham giầu.
T7/ Tiếng: Không vinh danh mình, nhưng vinh Danh Chúa.

Nếu là nam giới, có ý định làm linh mục, bạn có thể vào Chủng viện (Seminary) để được huấn luyện làm linh mục giúp giáo dân trong các xứ đạo thuộc giáo phận nào đó. Vào Chủng viện gọi là tu Triều, ngày nay thay vì gọi là Triều, người ta gọi là làm linh mục Giáo phận (Diocesan priest). Thời gian học hỏi mất chừng 5-7 năm (học triết học, thần học, mục vụ...và nhiều môn khác).

Nếu đã tốt nghiệp đại học rồi, thời gian học sẽ được rút vắn hơn một hai năm, tùy giáo phận.

Bạn cũng có thể đi tu Dòng và học hỏi làm linh mục, nhưng thời gian có thể kéo dài hơn, vì còn phải vào Tập viện, khấn tạm một hai ba tới năm sáu năm, tiếp theo là khấn trọn đời, hay khấn cho đến chết. Bạn cũng có thể không làm linh mục mà chỉ làm thầy dòng (nam tu sĩ). Dù là linh mục hay thầy dòng, thong thường là khấn 3 lời khấn, có dòng thêm một lời khấn nữa, tùy Tục lệ dòng.(Dòng Tên Chúa Giêsu khấn thêm: vâng phục Đức Thánh cha)

Ba lời khấn: (từ bỏ mình)
1- Khiết tịnh (sống đời độc thân),
2- Vâng phục (vâng lời giám đốc, bề trên truyền dạy), và
3- Khó nghèo (từ bỏ quyền làm chủ của cải riêng mình, muốn cho, nhận, chi tiêu, vay trả tiền nong, sản vật...phải xin phép bề trên mỗi lần).

Trước khi nhập Dòng, cần phải tìm hiểu mục đích riêng của mỗi dòng, coi có hợp với sở thích của mình không:
Có dòng chuyên giáo dục trẻ em qua việc dạy học tại các trường Tiểu, Trung, Đại học.
Có Dòng chuyên việc truyền giáo cho người ngoài Công giáo.
Có Dòng chuyên giúp bệnh nhân trong các bệnh viện.
Có Dòng chuyên in và phổ biến sách báo, băng nhạc, video giáo dục.
Có Dòng chuyên việc cầu nguyện như Dòng kín Carmelo.

Nếu không biết rõ mình muốn làm gì, và không hiểu rõ mục đích riêng của Dòng mình định vào có hợp với mình không, mà cứ đi thử hết chỗ nọ tới chỗ kia, sau cùng cũng sẽ chẳng đi đến đâu, chẳng tu được hay chẳng tu bền được.

Mời các bạn đọc câu chuyện "Tôi chọn người Tình Ẩn mặt" sau đây để so sánh với sự chọn lựa của bạn, nếu có, đã một lần làm bạn day dứt.
(Trích trong Thắp Sáng niềm Tin số 37 tháng 7 1999)
Vén nhẹ bức mành nơi cửa sổ hướng ra phía bờ hồ sau nhà, sơ Thoan giật mình vì trời đã nhá nhem tối. Trải dài tầm mắt hướng về phía trước, sơ thấy cả một hoàng hôn bao trùm vạn vật, ánh trăng lên cao mỗi lúc một sáng thêm thênh thang. Không gian như ngừng thở để trân trọng những giây phút linh thiêng, tĩnh lặng của đất trời. Không một bóng người, thỉnh thoảng lâu lắm mới có làn gió nhẹ đến rồi đi một cách vô tình

không để lại dấu vết. Sơ Thoan thích những giây phút như thế này, vì tâm hồn sơ dễ chìm đắm trong bình an, hoan lạc. Sơ cảm thấy tình yêu Chúa hiện hữu và thì thầm dạy bảo sơ. Hôm nay trước ngày vĩnh thệ, cuốn phim cuộc đời dần dần hiện ra trước mặt... 

...Ngày đó với tuổi trăng tròn 16, bao nhiêu mộng đẹp phơi phới như áng mây hồng. Thoan thấy mình ngày ngày vô tư cắp sách tới trường, áo trắng tung bay với hoa phượng thắm. Không có ai ngờ rằng, trong tuổi hoa niên tràn đầy sức sống và yêu đời, cô bé đã nghe được tiếng gọi hiến dâng với Chúa Kitô cho nhân loại.. Thời gian không bao giờ ngừng trôi, chẳng bao lâu ngày chia tay đã đến...bạn bè, thầy cô, trường lớp bỏ lại sau lưng. Sau bao nhiêu năm tháng miệt mài đèn sách, cuốn lưu bút ngày xanh được chuyền tay để gửi gắm và gói ghém biết bao yêu thương nồng nàn, như hành trang chất chứa nhiều kỉ niệm của lứa tuổi học trò, để rồi ngày mai bao ngả cuộc đời mà mỗi người phải lựa chọn. Hôm đó lớp tổ chức buổi đi chơi cuối năm, đến giờ khởi hành:

Nhật Uyên, phó trưởng lớp thông báo:
- Ngọc Thoan hôm nay mắc kẹt chuyện gia đình không thể tham dự buổi du ngọan cuối năm của chúng ta được, nhưng trưởng lớp của chúng ta hứa rằng sẽ có cuộc hội ngộ một ngày không xa.

Vài khuôn mặt lộ vẻ không vui, nhưng tất cả đoàn lại vui vẻ khởi hành sau tiếng hô của thầy chủ nhiệm.

Suốt đêm, tâm trí cô bé ngổn ngang và trĩu nặng bởi ba má khóc hết nước mắt vì ý định "đi tu thử" của cô bé.
- Con à! Ba má chỉ có mình con là con gái, ba má và các anh của con không muốn xa con, vả lại thấy con phải cực khổ ba má đau lòng lắm!

Làm sao để ba má hiểu rằng ơn gọi dâng hiến không phải chỉ để làm việc mà là để hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa mà thôi.

Ngoài trời tối như mực, mọi người đã yên giấc từ lâu. Thoan vẫn còn trằn trọc. Cô bé thầm thĩ với Chúa thật nhiều tựa một Samuel trong đêm vắng thổn thức ước vọng lên đền và sẵn sàng để đôi môi hồng mấp máy:"Này con đây xin Chúa hãy phán".

Thánh lễ sáng hôm sau nhiệm mầu làm sao, trong bài giảng cha xứ nhấn mạnh đến Ơn gọi. Ngài nói đến nét cao quí trong lý tưởng hiến dâng của đời người tu sĩ, và ngài kêu gọi các bậc làm cha mẹ hãy quảng đại hiến dâng con cái mình cho Thiên Chúa và Giáo hội. Ơn Chúa không bao giờ vô ích với những tâm hồn thành tâm tìm kiếm Ngài.

Và...
- Con gái cưng của ba má, ba má đã suy nghĩ lại: cho dù có phải mất mát, nhưng vì thương con, ba má để con tự do chọn lựa lý tưởng mà con hằng ôm ấp, ba má chấp nhận tất cả, miễn con vui là ba má lấy làm mãn nguyện. Con luôn nhớ rằng, dù ở phương trời nào ba má vẫn luôn cầu nguyện hằng ngày cho con.

Hạnh phúc dâng tràn, mặc dù phải sống xa gia đình' nỗi đau đớn khôn vơi, bao nhiêu là nhớ nhung xa cách, thương cho ba má những khi trái gió trở trời không người cơm bưng nước rót. Nhưng Thoan hiểu rằng Chúa sẽ lo tất cả, thế là cô bé chia tay với quá khứ để bước vào một chân trời mới...

Năm năm dài sống ngụp lặn trong tình Chúa, sơ Thoan cảm thấy hạnh phúc ngập tràn: đời đệ tử, năm tập, thấm thoát cô bé đã ký giao kèo với "Người ẩn Mặt" nhưng lại hiện diện mọi nơi mọi lúc. Lúc này Thoan thấy cuộc đời thật ý nghĩa khi sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, tâm hồn thanh thoát để đem trái tim phục vụ tất cả mọi người' đau khổ cũng có mà niềm vui cũng đầy, nhưng niềm xác tín hiến dâng chưa một lần phôi pha. Không có ngôn ngữ nào diễn tả đủ cạn niềm tin yêu ấy. Sơ Thoan chỉ biết dâng trọn cho Ngài, chỉ ước mơ vòng tay nhỏ bé của mình ôm ấp lời thề nguyền, lời thề mà Thoan khắc đậm hai chữ "ngàn năm" lên trên, để được mãi mãi trung thành với đời hiến dâng.

Nhưng cuộc đời mấy ai học được chữ ngờ! Giông tố nổi lên giữa buổi chiều hoàng hôn đẹp! Thật khó hiểu! Khấn chưa được bao lâu, tự nhiên sơ Thoan thấy sức khoẻ thay đổi lạ thường và sau cuộc thử nghiệm của bác sĩ:
- Sơ cần một thời gian yên tĩnh nghỉ ngơi để dưỡng bệnh, bằng không...

Như một cú sét đánh ngang tai, nhưng sơ Thoan không hề thất vọng, sơ trình bày tất cả lên bề trên, ý Chúa sẽ thể hiện, dù có phải hi sinh lý tưởng mến yêu này, sơ Thoan cũng xin vâng, miễn Chúa vui lòng là sơ Thoan vui. Bề trên đồng ý tạm cho sơ Thoan vắng mặt một thời gian để dưỡng bệnh tại gia...Sau bốn năm sống bên sự thương yêu chăm sóc của những người thân yêu, ai cũng ngờ rằng sơ Thoan sẽ chọn con đường khác.

Phần sơ Thoan, sơ chưa một lần có ý nghĩ như thế. Lời đoan hứa ngày xưa chưa một lần vơi cạn. Lời ước nguyện dâng hiến vẫn mạnh mẽ như thủơ nào. Chỉ còn vài ngày nữa là "cô bé" lại trở về Dòng để bước tiếp

quãng đường dâng hiến vẫn đang mở rộng như muốn thu hút Thoan hiến trọn cho Đấng Tình Quân "Ẩn Mặt".

Một buổi trưa hè nóng nực, sơ Thoan đang một mình say sưa với bài thánh ca quen thuộc của ngày tuyên khấn, thì cánh chim nào đó đã đem đến cho sơ Thoan một cánh thư. Cầm lá thư trong tay nhưng không rõ điều gì sẽ xảy ra? Nhìn nét chữ quá quen thuộc của người bạn những ngày kề cận trong lớp học, chưa kịp đọc, cô bé đã đoán được nội dung của bức thư:

Ngọc Thoan thương mến,
...Bao lâu rồi chưa một lần H. không dám nói thẳng, vì H. thấy lòng mình bị chao nghiêng, bị thuyết phục bởi nét đoan trang và nếp sống điềm đạm, vui tươi của Thoan (...) và H. đã hiểu được thế nào là chia tay, vì những gì có tiếc nhớ là có biệt ly và biệt ly của tiếc nhớ là biệt ly đã yêu thương rồi đấy...

Chuyện tình cảm của người bạn trai cùng lớp ngày nào đã làm cho sơ Thoan cảm thấy tim mình cay cay! Trầm ngâm một phút ngọn lửa tin yêu vẫn cương quyết không phai, sơ Thoan thầm thì " Chúa à! lại một lần nữa con xin được làm người tình của Chúa dù bất cứ giá nào..."

Cuốn phim tạm ngưng tại đây, vì đêm đã khuya, vả lại ngày mai là ngày trọng đại của sơ Ngọc Thoan, ngày làm "giao ước ngàn đời". Sơ sẽ ký "bản án chung thân" với Chàng Giêsu, lời khấn trọn đời mà sơ Thoan sẽ đọc để nói lên "xin mãi mãi chọn Người làm gia nghiệp, nơi Dòng nữ Đaminh này".

Sơ Thoan sẽ trao thân gửi phận để chỉ theo một người đã chết vì yêu, nhưng sống mãi muôn đời.
Sr. Phi Yến, OP. 1999

Chúa công bằng vô cùng, không ai làm gì cho Chúa mà không được thưởng, dù chỉ cho kẻ hèn mọn một chén nước lã. Chúa Giêsu hứa cho bất cứ ai bỏ nhà cửa, anh em,chị em, cha mẹ, con cái, ruộng đất, vì danh Chúa, sẽ được bù gấp trăm ở đời này, và được sự Sống đời đời:

"Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Người: Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?

Đức Giêsu đáp: Thầy bảo thật anh em, anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự tòa vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai tòa mà xét xử 12 chi tộc Israel. Và bất cứ ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em , cha mẹ con cái hay ruộng đất, vì Danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm lần và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp".(Mt 19,27-30)

Trong giờ Tân Ước, cha Gioan giảng về những đòi hỏi của ơn gọi làm tông đồ, trong đó có: đức tin, cầu nguyện, sẵn sàng chịu khổ vì Tin mừng, và phần thưởng sẽ được gấp trăm ở đời sau. Một em giơ tay hỏi:
- Thưa cha, cha bảo đời sau sẽ được gấp trăm, vậy nếu bây giờ con bỏ người yêu của con để đi tu, đời sau Chúa có thưởng cho con một trăm người yêu khác không?

- Cha Gioan: ???? Chắc được chứ.

Mời bạn đọc câu chuyện Niềm Vui Theo Chúa sau đây như một chứng tích cuộc sống tu trì được ân thưởng đời tạm này:

( Trích trong Thắp Sáng Niềm Tin số 36 tháng Tư năm 99)

Vào hè 1998 tôi được về thăm gia đình sau một thời gian dài xa cách bước theo tiếng gọi tình yêu của Chúa vào Dòng nữ Đaminh thử tu. Tôi vui mừng khôn xiết khi gặp lại ba má và các anh em tôi. Tôi hằng cảm nghiệm được sự quan tâm, lo lắng và yêu thương của ba má ngày càng thêm đậm đà tha thiết. Còn anh và em gái tôi thì tỏ ra rất ưu ái, mến yêu và tôn trọng tôi một cách đặc biệt hơn trước kia nhiều.

Có một điều xảy ra mà tôi không ngờ. Đó là cuộc gặp lại một bà hàng xóm ở cạnh apartment với tôi. Thường ngày bà và tôi gặp nhau chỉ gật đầu chào xã giao. Chúng tôi gần nhưng không thân thiết lắm. Vậy mà trong dịp hè vừa rồi bà đã sang nhà tôi chơi. 

Vừa bước vào nhà, thấy tôi bà chạy tới ôm lấy rồi hỏi han mọi điều. Tôi rất ngỡ ngàng tự hỏi: "Ủa bà này xưa kia đối với mình xa lạ lắm cơ mà? Sao bây giờ thân thiện thế?"

Cho dù nghĩ ngợi thắc mắc, nhưng tôi vẫn tỏ ra lễ độ thưa gửi mỗi khi bà hỏi chuyện. Bà đã khen tôi rất giỏi, đã tự tìm cho mình một con đường ngay chính, và rồi bà kể cho tôi nghe biết nhiều chuyện ngược xuôi ở đời.

Sau khi bà ra về, tôi liền chạy tới hỏi má tôi về sự khác lạ của bà hàng xóm.
- Má ơi, má có quen thân với cô Thu lắm không má?

Má tôi mỉm cười và nói:
- Từ khi con vào Dòng, cô Thu đã sang nhà mình chơi hoài con ạ. Đôi lúc cô còn đem hết quà này quà nọ đến cho nữa.

Khi nghe má tôi trả lời như vậy, tôi chợt hiểu rằng sở dĩ cô Thu tỏ ra thân mật như thế là vì cô thường qua lại với gia đình tôi.

Nhưng từ khi tôi về nhà và sau cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy, hầu như không có ngày nào mà cô Thu không làm bánh, nấu chè hay cầm theo những trái cây thơm ngon sang tặng cho tôi. Lắm lúc cô còn hỏi tôi thích ăn gì để cô nấu cho. Tôi đón nhận tất cả những gì cô đem đến là để cô được vui lòng.

Trong thâm tâm tôi chứa đựng một niềm vui hòa lẫn với nhiều điều thắc mắc và ngạc nhiên. Tuy rằng cô quen gia đình tôi thật, nhưng việc quen tầm thường đâu đến nỗi tỏ ra thân tình đến thế.

Cũng trong dịp hè đó, tôi được quen hai ông bà cụ cùng chung trình trạng với cô Thu. Bà cụ đã ôm lấy tôi, không những ôm mà còn hôn lên trán tôi nữa.. Thêm một lần làm cho tôi bỡ ngỡ thẹn thùng. Tôi với bà cả hai đều không quen biết nhau, thế mà bà đã cho tôi cảm nhận được tình thương ấy như bà ngoại của tôi đang mong mỏi ôm cháu vào long sau một thời gian lâu không gặp. Bà tỏ ra yêu mến tôi không kém cô Thu. Bà khuyên răn, khen ngợi và chúc mừng tinh thần tận hiến của tôi.

Tôi không có dịp gặp ông cụ cho tới đêm hôm cuối cùng. tôi còn ở với gia đình. Tối hôm ấy cả hai ông bà cụ sang nhà tôi. Tôi cứ tưởng ông bà sang chơi bất chợt thôi. Nhưng nào ngờ, ông bà sang để gặp tôi lần cuối trước khi tôi trở lại Dòng. Lòng tôi bỗng xúc động và nghĩ rằng tôi là gì mà hai người đáng bậc ông bà lại đưa tiễn một cô bé non dại. Đã vậy bà rút ra trong túi áo tờ giấy $100 trao cho tôi. Trong khi tôi biết bà chỉ là người đi lượm lon, và ông là người đi cắt cỏ để đủ tiền nhà cũng như gửi về giúp cho các con đang ở Việt nam nên tôi không nhận. Trái lại bà bảo tôi:
- Bác cho cháu để mua đồ dùng khi đi đường. Ít lắm, cháu nhận cho bác vui lòng. 

- Dạ, cháu cám ơn bác, nhưng cháu đã đủ. Xin hai bác giữ lại.

Tôi nghẹn ngào và lòng thấy lâng lâng niềm vui và hạnh phúc vì cảm được lòng quảng đại yêu thương quí mến của ông bà cụ dành cho tôi như một người hiến thân cho Chúa. Nằm trên giường đêm đó, tôi đã rơi đôi dòng lệ vì thấy mình quá sung sướng. Qua hình ảnh của ba má và các anh em trong gia đình, cô Thu cũng như hai ông bà cụ mà Chúa đã mặc khải cho tôi một chân lý:
"Không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ hay anh em vì Nước Thiên Chúa mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Lc 18,29-30).

Ngài đã cho tôi thấy rằng kẻ được Ngài lựa chọn luôn luôn tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc mà sẽ không bao giờ thiếu thốn trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Ôi, khi nghĩ đến đây, tôi càng nghiệm thấy rõ long yêu thương vô biên của Thiên Chúa đã dành cho những ai bước theo tiếng gọi của Ngài.

Cũng chính đêm đó Chúa đã ban cho tôi ơn can đảm, niềm phấn khởi và lòng ước ao được tiếp tục tiến bước theo Ngài.
"Lạy Chúa, xin thực hiện nơi con những gì Chúa đã khởi sự".
Tuyết Nhi.

a/ Cầu xin ơn Chúa
- Bạn chưa lấy chồng cũng chưa đi tu. Bạn đang ở ngã ba đường. Điều cần là Cầu nguyện nhiều để tìm ra Ý Chúa. Bạn nên cầu xin mỗi ngày như sau: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Nếu Chúa gọi con theo Chúa trong bậc tu trì, con sẵn sàng "Xin vâng"

b/Giữ sức khoẻ, học hành, luyện tính tốt... Tiếp đến, bạn gắng giữ sức khoẻ, học hành chăm chỉ, trau dồi tư cách, giữ gìn tình yêu, giữ linh hồn và thể xác luôn trong trắng, sống trong ơn thánh Chúa, không tội trọng. Nên tránh dịp "ở" riêng với một người khác phái, bất kì ở đâu, kẻo lỡ...

c/ Hơn nữa, rất cần gia đình, cha mẹ, anh chị em cùng cầu nguyện và giữ ơn gọi cho con em.
Trong thực tế, nhiều cha mẹ rất tốt lành, muốn cho con em đi tu và khuyến khích giữ gìn Ơn gọi cho con em. Ngược lại nhiều cha mẹ đã ích kỉ, chỉ muốn giữ con cho mình, theo ý định tương lai mình định đoạt, làm ngăn trở, và mất đi Ơn gọi của con em. Họ không biết rằng con cái đi tu sẽ góp phần vinh dự và ích lợi cho gia đình họ nhiều hơn, nhờ những lời cầu nguyện của con cái họ. Để con ở ngoài lập gia đình theo ý họ, chưa chắc họ đã được nhờ, hay phải "ngậm đắng nuốt cay", vì dâu, vì rể, vì ngay cả con trai hay con gái.

d/ Cộng đoàn, xứ đạo cũng được mời góp phần cổ động và giữ gìn Ơn gọi tu trì bằng lời nguyện, nâng đỡ.
Lời nguyện giáo dân của Cộng đoàn hàng tuần nên có lời cầu cho ơn gọi, nhất là vào Ngày cổ động Ơn gọi (Vocation Sunday) hàng năm.

Truyện vui:
Trong cộng đoàn kia có một bà mới đi tham dự Ngày Thánh Mẫu tại Missouri về, trong khi chờ đợi phiên họp "các Bà mẹ"bắt đầu, bà nói:

- Tôi có đứa con trai học giỏi lắm, tôi sẽ cho nó đi tu làm cha, người ta sẽ gọi nó là cha, người ta sẽ chào nó là: Chào cha.

- Bà khác nói: Ngày xưa người ta còn phải Con xin phép lạy cha ạ, mà bây giờ mấy đưá con nít nó cứ nói tên cha ra...

- Bà thứ hai: Xin lỗi bà chị cái nhé, chào cha thì ăn nhằm gì, thằng con tôi nó nói nó đi tu làm đức cha. Cha còn phải ở dưới đức Cha mà.

- Bà thứ ba: Em không dám khoe với các chị, em có thằng con trai, em sẽ cho nó đi tu để nó làm đức ông, đức ông là bố đức cha cơ mà, các chị nghĩ có phải không?

- Bà thứ bốn chấp luôn mấy bà kia: Thằng con tôi ấy à, nó mới có 10 tuổi mà nó nặng 150 pao. Mỗi lần dẫn nó đi Mc Donald là nó đòi ăn một lúc 2,3 cái big mac. Sữa tươi uống cả bình, cà rem ăn cả hộp. Biết nó mới

9 tuổi, ai cũng phải nói: Lậy Chúa tôi, Oh My God.

đ/ Lòng Kính Mến Đức Mẹ
Mẹ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Giáo hội, Mẹ linh mục, Mẹ tu sĩ. Mẹ lo cho Con Mẹ, cho Giáo hội Con Mẹ, Mẹ lo cho các linh hồn, Mẹ lo cho Ơn gọi tu trì cách riêng để có những người con tiếp tục sứ mạng cứu thế của Chúa Giêsu.

Muốn giữ Ơn gọi, phải chạy đến cùng Mẹ.

Muốn đời tu hạnh phúc, phải chạy đến cùng Mẹ.

Muốn công việc tông đồ nơi các linh hồn kết quả, phải chạy đến cùng Mẹ.

Truyện:
Thánh Philip Nêri, một ông thánh vui tính, thường hỏi các thiếu niên:
- Con có yêu mến Đức Mẹ không?
- Vậy con hãy đi tu noi gương Đức Mẹ đồng trinh.
Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 nói: "Yêu mến Đức Mẹ là phương thế tốt nhất để giữ đức khiết tịnh".

Lm. Đoàn Quang, CMC